TỔNG CỘNG 12 CÂU
Câu 1: Nêu hoàn cảnh ra đời
và ý nghĩa lịch sử của bản Đề cương văn hóa Việt Nam 1943?
* Chính sách văn hóa của Phát xít Nhật:
- Tuyên truyền thuyết Đại đông Á: “ Đuổi
người da trắng về Châu Âu và trả đất châu Á cho người da Vàng”.
- Chương trình hợp tác Nhật –Việt: tuyển
thanh niên đi học ở Nhật, tổ chức những đoàn tham quan và những hoạt động nghệ
thuật tuyên truyền cho “ Văn hóa phù tang”. Viện Văn hóa Nhật được thành lập,
thường xuyên tổ chức triển lãm, diễn thuyết, xuất bản, báo chí, biểu diễn ca
nhạc, diễn kịch, chiếu phim, du lịch, phục hồi những quan điểm đạo đức cổ hủ và
giả dối của giai cấp địa chủ phong kiến, lại vừa tuyên truyền lối sống dâm ô,
đồi trụy của giai cấp tư sản. Chúng vừa khuyến khích mê tín dị đoan, hủ tục,
vừa du nhập các trào lưu văn hóa phản động mệnh danh là “mới”. Chúng tung tiền
ra để sử dụng bè lũ tay sai, tổ chức các cơ quan và đoàn thể văn hóa nhằm nhồi
sọ, ru ngủ và lừa bịp đồng bào chúng ta
- Mục đích đánh lạc hướng được người dân
Việt Nam khỏi con đường cứu nước của Đảng
- Ảnh hưởng: một số văn nghệ sĩ Việt Nam đã
ca tụng phong tục, tập quán và tinh thần “Võ sĩ đạo” của Nhật. Một số người
trong bọn họ đã làm tay sai cho Nhật
* Tư tưởng Tờ-rốt-kít
: chủ nghĩa duy vật thô thiển, thực chất là duy tâm chủ quan. Bọn Tờ-rốt-kít
phủ nhận những di sản của quá khứ trong lúc cách mạng đang phát huy truyền
thống anh hùng và yêu nước của dân tộc Việt Nam. Vu khống Đảng ta là đi theo
con đường dân tộc chủ nghĩa và cải lương,
-
Để giúp các tầng lớp thanh niên và trí thức khỏi ảnh hưởng
nguy hại của bè lũ phát xít và tay sai, hướng họ vào mục tiêu cứu nước. Đảng
cần phải vạch trần những thủ đoạn lừa bịp và quan điểm phản động của bè lũ
thống trị và tay sai.
-
Mâu thuẫn giữa phát xít Nhật- Pháp với toàn thể nhân dân ta
ngày càng trở nên sâu sắc, tạo ra sự phân hóa rõ ràng trong các tầng lớp trí
thức
@ Một số trí thức
đã đi theo tiếng gọi của Đảng
@ Một
số ít đứng hẳn về phía bọn xâm lược
@ Đông đảo tầng lớp trí thức hoang mang, do
dự, bi quan, hoài nghi trước ngã ba đường của lịch sử.
-
Trước tình hình trên, ngày 25 tháng 2 năm 1943, Hội nghị
Thường vụ của Trung ương Đảng ta đã nhận định: “Đảng cần phải có cán bộ chuyên
môn hoạt động về văn hóa đặng gây ra một phong trào văn hóa tiến bộ, văn hóa
cứu quốc, chống lại văn hóa phát xít, thụt lùi. Ở những đo thị văn hóa như Hà
nội, Sài Gòn, Huế…phải gây ra tổ chức văn hóa cứu quốc và phải dùng hình thức
công khai hay bán công khai, đặng đoàn kết các nhà văn hóa và trí thức…”
-
Đề cương văn hóa Việt
Nam(1943) ra
đời trước những yêu cầu cấp thiết đó. Đó là bản tuyên ngôn chính thức đầu tiên
của Đảng ta về văn hóa- nghệ thuật.
Câu 2: Phân tích những quan điểm chỉ đạo của Đảng trong bản Đề
cương văn hóa 1943?
* Đề cương phản ánh toàn bộ đời sống xã hội, vào ý thức của con người;
thể hiện phong phú trên các mặt: tư tưởng học thuật và nghệ thuật Đảng chủ
trương đoàn kết đội ngũ những người hoạt động văn hóa và giúp đỡ họ tiến bộ,
trở thành những chiến sĩ tự giác trên mặt trận văn hóa cách mạng.
* Quan điểm cơ bản về cách mạng văn hóa, chỉ ra mối quan hệ khăng khít
giữa cách mạng chính trị, cách mang kinh tế và cách mạng văn hóa; Cách mạng
chính trị phải thắng trước rồi cách mạng kinh tế và cách mạng văn hóa mới có
điều kiện thắng sau.
* Đề cương nhấn mạnh : Vai trò lãnh đạo của Đảng. Đứng trên lập trường
của giai cấp công nhân, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm tư tưởng, chỉ có Đảng mới
hướng cuộc vận động cách mạng văn hóa Việt Nam vào con đường đúng đắn và đạt
tới đích cuối cùng.
* Tổ chức các đoàn thể văn hóa cách mạng, Đảng đề ra: cần thành lập và
phát triển Hội văn học cứu quốc Việt Nam, kết nạp những người làm công tác văn
hóa, giáo dục, khoa học và văn học, nghệ thuật.
* Đề cương văn hóa thể hiện tinh thần cách mạng triệt để của Đảng cộng
sản Đông Dương và của giai cấp công nhân Việt Nam. Đề cương phục vụ đắc lực cho
chính sách mặt trận dân tộc thống nhất, chính sách đại đoàn kết dân tộc, tập
trung lực lượng yêu nước và tiến bộ, cô lập kẻ thù để đánh đổ chúng, nhằm đạt
mục đích của cách mạng.
* Đề cương đề ra cho giới trí
thức, văn nghệ sĩ Việt Nam, ngoài nhiệm vụ chung là giải phóng dân tộc giành
độc lập, tự do còn có sứ mệnh thiêng liêng là giải phóng văn hóa và xây dựng
nền văn hóa mới Việt Nam.
Câu 3: Nêu những yêu cầu đặt ra đối với việc xây dựng nền văn hóa
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc?
- Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
là nhiệm vụ to lớn, khó khăn, lâu dài đòi hỏi phải phát triển nền văn hoá dân
tộc lên một trình độ mới.
- Việc mở cửa hội nhập quốc tế để tiếp thu, tiếp
biến các thành tựu văn hoá - văn minh nhân loại để công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước đặt ra yêu cầu phát triển văn hoá dân tộc.
- Xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc nhằm thực hiện mục tiêu của xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng
ta hướng tới và khắc phục sự suy thoái
của tư tưởng, đạo đức, lối sống hiện nay.
- Xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến đậm
đà bản sắc dân tộc nhằm khắc phục mặt tiêu cực của xu thế toàn cầu hoá hiện
nay.
Câu 4: Phân tích phương hướng xây dựng nền
Văn hóa Việt Nam
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc?
Phương hướng chung của sự nghiệp xây dựng và phát
triển nền văn hoá là:
- Tạo ra trên đất nước ta đời sống tinh thần cao
đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát triển, phục vụ sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh.
- Phát huy chủ nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn
kết, ý thức độc lập tự chủ, tự cường dân tộc.
- Bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh
hoa văn hoá nhân loại.
- Làm cho văn hoá thấm sâu vào các lĩnh vực kinh tế
– xã hội, và từng cá nhân, nhóm, cộng đồng.
- Xây dựng và hoàn thiện nhân cách của con người
Việt Nam
hiện đại (Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X).
Câu 5: Nêu những quan điểm chỉ đạo của
Đảng đối với việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc? Phân
tích quan điểm 2 hoặc 3?
Để xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam
trong thời đại ngày nay cần chú ý đến năm quan điểm cơ bản sau đây:
a.Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là
mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội (Quan điểm về
vai trò của văn hoá)
Quan điểm này chỉ rõ vị
trí, vai trò đặc biệt quan trọng của văn hóa. Văn hóa là nền tảng tinh thần của
xã hội, văn hóa thể hiện sức sống, sức sáng tạo, phát triển và bản lĩnh của một
dân tộc. Văn hóa có mối quan hệ thống nhất biện chứng với kinh tế. chính trị,
xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu cuối cùng là văn hóa. Trong
mỗi chính sách kinh tế xã hội luôn bao hàm nội dung và mục tiêu văn hóa. Văn
hóa có khả năng khơi dậy tiềm năng sáng tạo của con người, nguồn nhân lực quyết
đinh cho sự phát triển của xã hội.
b. Nền văn hoá mà chúng ta xây dựng là nền văn hoá
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc (Quan điểm về tính chất của nền văn hoá)
Nền văn hóa tiên tiến là
nền văn hóa có nội dung yêu nước và tiến bộ. Nền văn hóa nước ta thể hiện sức
phát triển sáng tạo của dân tộc, các lĩnh vực của nền văn hóa Việt Nam có trình độ
phát triển ngang tầm với các nước có trình độ tiên tiến trên thế giới, Những
giá trị văn hóa truyền thống được kết tinh và tập hợp các tinh hoa văn hóa cộng
đồng các dân tộc, tiếp thu và hòa quyện với các giá trị tiến bộ của văn hóa
nhân loại, để đạt tới các giá trị cao cả, chân thiện mỹ.
c. Nền văn hoá Việt Nam
là nền văn hoá thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam
(Quan điểm về mối quan hệ văn hoá dân tộc và văn hoá tộc người ở nước ta)
Nét
đặc trưng nổi bật của văn hóa Việt Nam là sự thống nhất mà đa dạng,
trên cơ sở hòa quyện bình đẳng sự phát triển của văn hóa dân tộc anh em cùng
sống trên lãnh thổ Việt nam. Mỗi thành phần dân tộc có truyền thống và bản sắc
của mình, cả cộng đồng dân tộc Việt Nam có nền văn hóa chung thống
nhất. Sự thống nhất bao hàm cả tính đa dạng; đa dạng trong sự thống nhất. Không
có sự đồng hóa hặc thôn tính, kỳ thị.
d. Xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp của
toàn dân do Đảng lãnh đạo trong đó đội ngũ tri thức giữ vai trò quan trọng
(Quan điểm chủ thể của nền văn hoá nước ta)
Xây dựng và phát triển
văn hóa là sự nghiêp của toàn dân. Giai cấp công nhân, nông dân trí thức là nền
tảng của khối đại đoàn kết dân tộc; đồng thời là lực lượng chủ lực, nòng cốt
xây dựng và phát triển văn hóa. Đội ngũ trí thức, văn nghệ sỹ gắn bó với nhân
dân lao động được Đảng, Nhà nước và nhân dân tôn trọng, tạo điều kiện phát huy
tài năng phục vụ nhân dân, cống hiến cho sự phát triển văn hóa của nước nhà do
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý. Chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
là nền tảng tư tưởng của nền văn hóa Việt Nam.
e. Văn hoá là một mặt trận. Xây dựng và phát triển
văn hoá là sự nghiệp cách mạng lâu dài cần có ý chí cách mạng và sự kiên trì
thận trọng (Quan điểm về tính cách mạng trong xây dựng nền văn hoá hiện nay).
Xây dựng nền văn hóa là
quá trình đấu tranh kiên trì bền bỉ, lâu dài để giữ gìn và phát huy giá trị,
bản sắc dân tộc, đấu tranh chống lại tàn dư của chế độ cũ và sự xâm nhập, phá
hoại của các yếu tố tiêu cực, ngoại lai. Xây dựng nền văn hóa trong giai đoạn
cách mạng này phải kết hợp giữa “xây” và “chống”, lấy xây là chính để chiến
thắng cái cũ, cái lạc hậu. Xây dựng các giá trị văn hóa mới. con người mới là
quá trình lâu dài, gian khổ, đòi hỏi kiên trì, bền bỉ, sự dũng cảm, ý chí quyết
tâm và tinh thần sáng tạo.
Câu 6: Nêu những nhiệm vụ cụ thể để xây
dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc?
Nhiệm vụ trung tâm đó
được Nghị quyết trung ương V khóa VIII (1998) triển khai với 10 nhiệm vụ cụ
thể:
a. Nhiệm vụ thứ nhất: xây
dựng con người Việt Nam
trong giai đoạn cách mạng mới
b. Nhiệm vụ thứ hai: xây dựng môi trường văn hoá
c. Nhiệm vụ thứ ba: phát triển sự nghiệp văn học và
nghệ thuật
d. Nhiệm vụ thứ tư: bảo tồn và phát huy các di sản
văn hoá
đ. Nhiệm vụ thứ năm: phát
triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo và khoa học công nghệ.
e. Nhiệm vụ thứ sáu: phát triển đi đôi với quản lý
tốt các phương tiện thông tin đại chúng
f. Nhiệm vụ thứ bảy: bảo
tồn, phát huy và phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số
g. Nhiệm vụ thứ tám: chính sách văn hoá đối với tôn
giáo
h. Nhiệm vụ thứ chín: mở rộng hợp tác quốc tế về văn
hoá
i. Nhiệm vụ thứ mười: củng cố, xây dựng và hoàn
thiện các thể chế văn hoá
Nhiệm vụ cụ thể đầu tiên
cũng là nhiệm vụ trung tâm của công cuộc xây dựng và phát triển văn hóa ở nước
ta trong thời kỳ đổi mới là nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam với 5 đức tính sau:
- Có tinh thần yêu nước,
tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí
vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế
giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ
xã hội.
- Có ý thức tập thể, đoàn
kết phấn đấu vì lợi ích chung
- Có lối sống lành mạnh,
nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép
nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái
- Lao động chăm chỉ với
lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng suất cao vì lợi ích của bản
than, gia đình, tập thể, xã hội
- Thường xuyên học tập,
nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mỹ và thể lực.
Năm cụm đức tính con
người nêu lên trong Nghị quyết trung ương 5 khóa VIII, vừa có kế thừa những đức
tính truyền thống, vừa đáp ứng những yêu cầu xây dựng con người Việt Nam trong
giai đoạn mới.
Câu 7: Văn hóa đạo đức là gì? Nêu những
thành tố tạo nên nền văn hóa đạo đức?
Nêu khái niệm “văn hóa đạo đức” được các nhà lý luận văn hóa Xô Viết
dùng đầu tiên để chí “văn hóa đạo đức của hành vi con người”. Họ cho rằng: “Nói
văn hóa đạo đức là phải nói tới hành vi con người. Bởi vì văn hóa đạo đức không
thể tồn tại ngoài những hình thức cụ thể của hành vi, không chỉ dừng lại ở đạo
đức. Cho nên, ở đây nói đến văn hóa đạo đức giới khoa học Việt Nam sử
dụng và dần dần xác định rõ hơn nội dung của khái niệm: Thuật ngữ “văn hóa đạo
đức” dùng để chỉ một bộ phận của văn hóa tinh thần xã hội. Bộ phận ấy không chỉ
là “văn hóa đạo đức của hành vi” mà còn “bao gồm những nguyên lý (đạo lý), quy
tắc chuẩn mực điều tiết hành vi con người” và cả hệ thống thiết chế xã hội –
văn hóa, giúp cho các nguyên lý, quy tắc và chuẩn mực đạo đức được vận thông
trong đời sống xã hội. Vậy có thể đưa ra một khái niệm về văn hóa đạo đức như
sau: Văn hóa đạo đức là một bộ phận (thành
tố) của văn hóa tinh thần xã hội biểu hiện trình độ người của các quan hệ xã hội,
bao gồm tổng thể các giá trị, chuẩn mực đạo đức của một cộng đồng, được cộng đồng
thừa nhận và chấp nhận. Chúng được đem vào vận hành trong đời sống cộng đồng
thông qua các thiết chế xã hội – văn hóa và được biểu hiện ở hành vi đạo đức của
cá nhân, nhóm, cộng đồng.
Nhìn từ phương diện cấu
trúc, văn hóa đạo đức là một thành tố của văn hóa tinh thần (hệ thống lớn),
cùng tồn tại và tương tác với các thành tố khác như văn hóa chính trị, văn hóa
pháp luật, văn hóa thẩm mỹ và văn hóa nghệ thuật v.v.. Nếu xét riêng, văn hóa
đạo đức là một tiểu hệ thống bao gồm các yếu tố: giá trị đạo đức, chuẩn mực, khuôn
mẫu đạo đức, hành vi đạo đức và thiết chế xã hội – văn hóa về đạo đức v.v..
Nhìn từ phương diện trình
độ người của các quan hệ xã hội, văn hóa đạo đức biểu hiện trình độ ứng xử của
con người với con người, với xã hội và với tự nhiên một cách có văn hóa và đúng
với văn minh. Ứng xử có văn hóa là ứng xử nhằm nâng cao trình độ nhân tính, làm
cho con người tốt hơn, đẹp hơn và hữu ích hơn, tóm lại là nhân bản hơn, nhân
văn hơn và người hơn. Ứng xử với văn minh là ứng xử phù hợp với trình độ kinh
tế, trình độ sản xuất vật chất, trình độ của khoa học và công nghệ mỗi thời
đại.
* Nêu những thành tố tạo nên nền văn hóa đạo đức?
Từ quan niệm trên về văn hóa đạo đức, người
ta dễ dàng nhận thấy cấu trúc của nó bao gồm
bốn thành tố cơ bản sau: Các giá
trị đạo đức tập hợp thành bảng giá trị, thang giá trị; hệ thống chuẩn mực;
khuôn mẫu đạo đức; hệ thống thiết chế xã hội – văn hóa về đạo đức (hệ thống
thiết chế đạo đức) và các hành vi biểu
hiện văn hóa đạo đức của cá nhân và cộng đồng.
-Hệ
thống các giá trị đạo đức
Giá trị đạo đức
là các nguyên tắc (đạo lý), quy tắc về các phương thức ứng xử đã được cộng đồng
lựa chọn, thừa nhận và chấp nhận, trở thành kinh nghiệm tập thể của mỗi cộng
đồng. Chúng đáp ứng tối ưu các nhu cầu của cá nhân và cộng đồng trong
quan hệ với người khác và với cộng đồng (gia đình, làng xã, dân tộc, giai cấp,
tổ quốc,..). Các giá trị đạo đức có vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần
của cá nhân và cộng đồng, người ta cần đến chúng như một nhu cầu (cân bằng nội
tâm), một lẽ sống (lý tưởng sống), một sức mạnh(động lực tinh thần) của cá nhân
và cộng đồng.
Hệ thống giá trị
đạo đức là toàn bộ các giá trị đã được trải nghiệm, được sắp xếp theo một trật
tự, thứ bậc: cao – thấp, phổ biến – cục bộ, lâu dài – trước mặt, phố quát –
phát sinh v.v.. để định hướng hành động, cố kết cộng đồng và đánh giá hành vi
đạo đức của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng.
-Hệ thống chuẩn
mức và khuôn mẫu đạo đức
Hệ thống chuẩn
mực đạo đức là hệ thống các quy tắc, các cách thức cụ thể, định rõ con người
nên ứng xử như thế nào trong các tình huống, hoàn cảnh cụ thể cho phù hợp với
các giá trị đạo đức của cộng đồng. Chúng chính là sự cụ thể hóa, là sự vận
dụng giá trị đạo đức vào hành vi thực tiễn của con người, cấm đoán, chúng dẫn
dắt hành vi của con người. Chúng lặp đi lặp lại trở thành khuôn mẫu hành động,
thành phong tục tập quán, nếp sống cá nhân và cộng đồng.
Khuôn mẫu mang một ý nghĩa biểu trưng cho một chuẩn mực nào
đó. Dần dần chúng trở thành thói quen trong đời sống của các cá nhân và cộng đồng,
ăn sâu vào tâm thức của họ.
-Hệ thống thiết chế xã hội – văn hóa đạo đức
Để đảm bảo cho sự trao truyền, giáo hóa đạo đức diễn ra liên
tục và bảo đảm cho các giá trị, chuẩn mực, hành vi đạo đức được vận thông, mỗi
cộng đồng cần đến hệ thống thiết chế xã hội – văn hóa thực hiện các chức năng
trên. Hệ thống thiết chế xã hội – văn hóa
về đạo đức bao gồm các thiết chế gia đình, nhà trường, nhà nước, đoàn thể chính
trị - xã hội, tôn giáo… Chúng được hình thành trên cơ sở quan hệ giữa các thành
viên trong nhóm, cộng đồng với các quy chế, quy định, quy ước, thể lệ, điều lệ,
giới luật của nhóm, cộng đồng ấy.Chúng có sức mạnh vật chất và tinh thần để
thực hiện các chức năng mà xã hội đòi hỏi.
-Hành vi đạo đức
của cá nhân và cộng đồng
Hành vi đạo đức của cá nhân và cộng đồng là hành vi mang tính
thực tiễn xã hội, có ý nghĩa tích cực đối với đời sống cá nhân và cộng đồng
tiến bộ, nhân bản, nhân văn). Hành vi đạo đức là hành vi mang tính nhân văn về
mục tiêu mà phải mang tính nhân văn về cả phương thức, phương tiện thực hiện.
Như vậy hành vi đạo đức phải là hành vi có sự gắn kết giữa mục đích, động cơ,
phương tiện để đạt hiệu quả xã hội tích cực, đem lại hanh phúc cho cá nhân và
cộng đồng.
Câu 8: Nêu thực trạng
văn hóa đạo đức trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam?
3.2.1. Những biến đổi tích cực
Trong những năm đổi mới nhiều nét mới trong
các giá trị, chuẩn mực đạo đức được hình thành theo xu hướng nhân văn hơn, nhân
bản hơn. Sự quan tâm của xã hội đến con người một cách trực tiếp hơn
Do có sự đổi mới kinh tế - xã hội mà tính
“tích cực công dân” ( năng động cá nhân) được phát huy, lợi ích cá nhân, sáng
kiến cá nhân, sự lựa chọn cá nhân và năng lực cá nhân được khuyến khích. Không
khí dân chủ được mở rộng ra và tăng lên cùng với sự tự do cá nhân. Quy chế dân
chủ mà Đảng đề xướng và quần chúng nhân dân đòi hỏi cơ sở chứng minh cho điều
đó.
Những hoạt động hướng thiện trở thành
phong trào xã hội, hướng về cội nguồn dân tộc, cách mạng và kháng chiến. Các
hoạt động “đền ơn đáp nghĩa”, “xóa đói giảm nghèo” và “cứu trợ nạn nhân của tệ
nạn xã hội” v.v. đã được cả xã hội hưởng
ứng. Nhiều cá nhân và nhóm xã hội đã chú ý phục hồi những quan hệ đạo đức
truyền thống tốt đẹp: gia đình, họ tộc, bạn bè, thầy trò, đồng đội, đồng hương
v.v.. Một lối sống văn hóa và một nền đạo đức của lối sống mới đang trong quá
trình hình thành với những biểu hiện tích cực.
Đã xuất hiện nhiều vấn đề nổi cộm và hết sức
phức tạp trong thực tiễn của văn hóa đạo đức và lối sống hiện nay. Hội nghị lần
thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VII (1998) đánh giá: “Tệ sung bái nước
ngoài, coi thường giá trị văn hóa dân tộc, chạy theo lối sống thực dụng, cá
nhân vị kỷ,.. đang gây hại đến thuần phong mỹ tục của dân tộc. Không ít trường
hợp vì đồng tiền và danh vị mà chà đạp lên tình nghĩa gia đình, quan hệ thầy
trò, đồng chí, đồng nghiệp. Buôn lậu, tham nhũng phát triển. Mại dâm và các tệ
nạn xã hội khác gia tăng. Nạn mê tín dị đoan phổ biến. Nhiều hủ tục cũ, mới lan
tràn, nhất là việc cưới, việc tang và lễ hội”. Những hiện tượng tiêu cực trong
lực lượng lãnh đạo xã hội là điều đáng báo động, từ đầu những năm 1990 đến nay
càng “phổ biến hơn”, “tinh vi hơn”, “nghiêm trọng hơn”, trở thành căn bệnh trầm
trọng của đời sống xã hội như Hội nghị Trưng ương năm khóa VII đã cảnh báo: “ Nghiêm
trọng hơn là sự suy thoái về đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên trong đó có cả cán bộ có chức, có quyền. Nạn tham nhũng dùng tiền của
Nhà nước tiêu xài phung phí, ăn chơi sa đọa không được ngăn chặn có hiệu quả.
Hiện tượng quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu nhân dân, kèn cựa địa vị, cục bộ, địa
phương, bè phái, mất đoàn kết khá phổ biến”.
Là do đường lối của Đảng và chính sách của
Nhà nước phù hợp với yêu cầu khách quan của đời sống xã hội, trở thành định hướng
đúng đắn cho sự phát triển đất nước. Nhờ đó chúng ta đã có những thành tựu đáng
kể trong việc xây dựng văn hóa đạo đức và lối sống. Nhân dân ta có truyền thống
đạo đức và lối sống tốt đẹp nên đã tham gia tích cực vào sự nghiệp phát triển
kinh tế - xã hội, xây dựng nền văn hóa và lối sống mới vì hạnh phúc của cá nhân
và cộng đồng.
Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương
khóa VIII nêu lên, với các nguyên nhân khách quan là:
1) Sự xụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội
ở Liên Xô và Đông Âu gây hoang mang, dao động.
2) Các thế lực thù địch chống phá nước ta
với âm mưu “diễn biến hòa bình”
3) Cơ chế thị trường và tác động của xu
thế toàn cầu hóa với các mặt trái của chúng.
4) Nước ta còn nghèo lại chiến tranh dẫn
đến mức sống còn thiếu thốn.
Hội nghị cũng nêu ra các nguyên nhân chủ
quan là:
1) Chưa coi trọng
việc xây dựng, giáo dục về tư tưởng, đạo đức và lối sống
2) Xử lý những phần
tử thoái hóa biến chất trong bộ máy Đảng và Nhà nước chưa nghiêm
3) Trong lãnh đạo và quản lý có những biểu hiện buông lỏng, né tránh, hữu
huynh
4) Chưa có cơ chế
phát huy nội lực của nhân dân trong đó có văn hóa đạo đức và lối sống
Ngoài ra còn phải thấy rõ những nguyên
nhân sâu xa về lịch sử xã hội là:
-
Chúng ta xây dựng nền văn hóa đạo đức và lối sống
mới từ văn hóa đạo đức và lối sống của giai đoạn đấu tranh bảo vệ độc lập dân
tộc sang giai đoạn hòa bình xây dựng đất nước với các mục tiêu, giá trị, chuẩn
mực mới.
-
Chúng ta xây dựng nền văn hóa đạo đức và lối sống
mới từ văn hóa đạo đức và lối sống thời bao cấp, sản xuất, phân phối theo kế
hoạch, sang nền văn hóa đạo đức và lối sống của thời kỳ kinh tế thị trường,
hạch toán kinh doanh, phân phối theo lao động với những yêu cầu giá trị, chuẩn
mực mới.
-
Chúng ta xây dựng nền văn hóa đạo đức và lối sống
mới từ văn hóa đạo đức và lối sống của xã hội cổ truyền nông dân – nông nghiệp
– nông thôn, sang nền văn hóa đạo đức và lối sống của xã hội hiện đại công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa với những đòi hỏi mới.
-
Chúng ta chưa thấy hết được những hậu quả do một số sai lần
trong đường lối, chủ trương về kinh tế - xã hội ( mô hình kinh tế - xã hội, cải
tạo công thương nghiệp…), về giáo dục phiến diện mấy chục năm qua.
Câu 9: Phân tích các giải pháp cơ bản để xây dựng nền văn hóa đạo
đức ở Việt Nam?
Đạo đức không sinh ra từ đạo đức, mà do những
điều kiện kinh tế, sản xuất của xã hội quyết định. Muốn tạo ra nền văn hóa đạo
đức và lối sống mới phải xây dựng cơ sở kinh tế cho chúng hình thành và phát
triển. Hơn nữa, đối với nước ta là một nước nghèo, chậm phát triển lại đang có
nguy cơ tụt hậu về kinh tế, vấn đề phát triển kinh tế là vấn đề mang ý nghĩa sống
còn. Giải pháp phát triển kinh tế là giải pháp có tính nguyên tắc trên cơ sở lý
luận duy vật của chủ nghĩa Mác và tư tưởng Hồ Chí Minh về xã hội. C.Mác chỉ ra
rằng: người ta trước hết phải ăn, mặc, ở, đi lại sau mới bàn đến chính trị,
khoa học, nghệ thuật và đạo đức. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Người dân
lấy cái ăn bằng trời, nếu không có ăn là không có trời”. Vậy, muốn có một nền
văn hóa đạo đức tốt đẹp phải có một điều kiện vật chất, kinh tế tương xứng. Muốn
có một lối sống đẹp phải có một mức sống vật chất nhất định.
Quan tâm đến lợi ích của con người, trước
hết là lợi ích kinh tế, là một nguyên tắc của nền văn hóa đạo đức và lối sống
mới. “Lợi ích được hiểu một cách đúng đắn là cơ sở của toàn bộ đạo
đức”.(C.Mác).
Phát triển kinh tế phải gắn liền với phát
triển văn hóa, xã hội một cách hiện thực, trực tiếp ở từng cơ sở, từng địa
phương, từng người như quan điểm mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu “ Mọi kế
hoạch đầu tư xây dựng và phát triển gắn với kế hoạch đầu tư cho chính sự phát
triển về nhân cách, trí tuệ, tình cảm, niềm tin, hạnh phúc của mỗi người dân,
mỗi gia đình ngay ngày hôm nay”.
Chiến lược phát triển đất nước quyết định chiến
lược xây dựng con người chủ thể của nền văn hóa đạo đức và lối sống. Mô hình
kinh tế - xã hội đúng đắn, hợp lý, thực tế thì sẽ giúp cho con người “ đi theo
điều thiện một cách nhẹ nhàng” ( Mạnh Tử)
Mô hình kinh tế - xã hội không phù hợp với
thực tế chỉ hướng tới một tương lai mong muốn, một tương lai ước muốn, sẽ “trở thành áp đặt, cưỡng bức thì đối với nó,
người ta có thái độ hai mặt, giả dối, cho đến khi công khai phủ nhận”
Câu 10: Văn hóa nghệ thuật là gì? Cấu trúc của văn hóa nghệ thuật
bao gồm mấy thành tố?
Cho đến nay, Giới nghiên
cứu đều thống nhất cho rằng: Văn hóa nghệ
thuật là một bộ phận của đời sống văn hóa tinh thần, là thành tố trọng yếu
nhất của văn hóa thẩm mỹ. Văn hóa nghệ thuật không chỉ bao gồm toàn bộ các giá
trị nghệ thuật ở các loại hình nghệ thuật, mà là tổ hợp của nhiều thành tố có
mối liên hệ hữu cơ quy định lẫn nhau.
* Cấu trúc của văn hóa nghệ thuật bao gồm
mấy thành tố?
Bao gồm bốn thành tố chính là:
+ Nghệ sĩ
+ Tác phẩm nghệ thuật
+ Công chúng nghệ thuật
+ Các thể chế, thiết chế về lãnh đạo, quản lý văn
hóa nghệ thuật
Các thành tố trên không tồn tại độc lập mà có mối quan hệ hữu
cơ, ảnh hưởng và quy định lẫn nhau. Cơ chế hoạt động văn hóa nghệ thuật bao gồm
quá trình sáng tạo, quá trình bảo quản, truyền bá, phổ biến và tiêu thụ các giá
trị nghệ thuật, quá trình lãnh đạo và quản lý nghệ thuật… của các cá nhân, các
cơ quan tổ chức, thiết chế vừa bảo đảm định hướng chính trị của Đảng và Nhà
nước vừa bảo đảm quyền tự do sáng tạo và tính đặc thù của văn hóa nghệ thuật.
Câu 11: Phân tích nhiệm vụ phát triển văn học nghệ thuật trong giai
đoạn hiện nay?
* Nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là “Phấn
đấu sáng tạo nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật có giá trị tư tưởng và nghệ thuật
cao, thấm nhuần tinh thần nhân văn, dân chủ, có tác dụng xây dựng con người… Hướng
văn nghệ nước ta phản ánh hiện thực sinh động, chân thực và sâu sắc sự nghiệp của
nhân dân trong cách mạng và kháng chiến, trong xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ Tổ quốc cũng như tái hiện lịch sử kiên cường, bất khuất của dân tộc. Đặc biệt
khuyến khích các tác phẩm về công cuộc đổi mới thể hiện nổi bật những nhân tố
tích cực trong xã hội, những nhân vật tiêu biểu của thời đại. Cổ vũ cái đúng,
cái tốt, cái đẹp trong quan hệ giữa người với người, giữa con người với xã hội,
với thiên nhiên, phê phán những thói hư tật xấu, lên án cái ác, cái thấp hèn.
Sáng tạo nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật cho thiếu niên, nhi đồng với hình
thức, nội dung thích hợp, nghiêm cấm xuất bản loại sách kích thích bạo lực ở trẻ
em”.
Văn học nghệ thuật tiếp tục phát triển theo kịp
với những đòi hỏi ngày càng cao của công cuộc đổi mới, theo kịp đòi hỏi của
công chúng có trình độ văn hóa và năng lực thẩm mỹ ngày càng cao.
Đảng
“Khuyến khích tìm tòi, thể nghiệm mọi phương pháp, mọi phong cách sáng tác vì
mục đích đáp ứng đời sống tinh thần lành mạnh, bổ ích cho công chúng. Bài trừ
các khuynh hướng sáng tác suy đòi, phi nhân tính. Bài trừ các khuynh hướng sáng
tác đi đôi với nêu cao trách nhiệm công dân, trách nhiệm xã hội của văn nghệ
sĩ, các nhà văn hóa”
- Quyền tự do sáng tác của văn nghệ sĩ nằm trong
sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo và được quy định bởi trách nhiệm và nghĩa
vụ của mỗi người đối với Tổ quốc, nhân dân và chủ nghĩa xã hội.
- Tư do sáng tác trong văn học nghệ thuật là tự
do phục vụ nhân dân, Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội, Tự do sáng tác gắn liền với
việc nêu cao trách nhiệm công dân, trách nhiệm xã hội của người nghệ sĩ trước
Tổ quốc
- Các cấp
ủy Đảng và chính quyền Nhà nước, các đoàn thể chính trị - xã hội nghề nghiệp
cần quan tâm chăm sóc đời sống vật chất, tinh thần của văn nghệ sĩ, nhất là
những người cao tuổi, đãi ngộ thỏa đáng đối với văn nghệ sĩ tài năng. Chú
trọng, bồi dưỡng đào tạo lớp văn nghệ sĩ trẻ. Làm tốt công tác bảo vệ bản quyền
tác giả. Cần “ban hành và thực hiện chính sách thể hiện rõ sự quan tâm và chăm
sóc đối với văn nghệ sĩ và những người hoạt động trong các lĩnh vực nghệ thuật,
nhất là nghệ thuật truyền thống. Đầu tư thích đáng để đào tạo nhân tài, nghệ
sĩ, có chính sách động viên lực lượng làm văn học nghệ thuật sáng tác, xây dựng
các công trình, các tác phẩm có giá trị về nội dung và nghệ thuật.”
Phê bình văn học nghệ thuật là một khoa học, đồng
thời là một nghệ thuật. Phê bình văn học nghệ thuật là hoạt động liên quan đến
sự thẩm định, đánh giá, nhận xét, “phê bình”. Do đó, cần phải phát huy tinh
thần dân chủ trong trao đổi, thảo luận. Và các cuộc trao đổi, tranh luận phải
có định hướng, có kết luận, có tổng kết. Trong công cuộc đổi mới đã xuất hiện
một số ý kiến và sáng tác lệch lạc sai trái. Đảng đòi hỏi “Tiếp tục đấu tranh
chống các khuynh hướng sáng tạo trái với đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng”
nhằm bảo vệ phát triển đường lối văn hóa, văn nghệ đúng đắn của Đảng, tiếp tục
phát huy vai trò to lớn của lý luận phê bình, nghiên cứu và sáng tác văn học
nghệ thuật phấn đấu vì lợi ích nhân dân, vì Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội.
Cần không ngừng nâng cao thị hiếu thẩm mỹ và trình độ thưởng
thức nghệ thuật của công chúng, đặc biệt quan tâm tầng lớp thanh niên, thiếu
niên, nhi đồng. Tạo điều kiện để nhân dân tham gia tích cực vào sáng tạo, phê
bình văn nghệ và được thưởng thức ngày càng nhiều tác phẩm văn nghệ có giá trị
trong và ngoài nước. Hết sức coi trọng việc bảo tồn kế thừa, phát huy những giá
trị văn nghệ dân gian, văn nghệ bác học, văn nghệ cách mạng. Củng cố hoàn thiện
thể chế của văn hóa, văn nghệ bảo đảm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, sự
quản lý có hiệu quả của Nhà nước, vai trò làm chủ của nhân dân và lực lượng
những người hoạt động văn học nghệ thuật. Phát triển đi đôi với quản lý tốt các
hoạt động dịch vụ nghệ thuật và công tác xuất nhập khẩu văn hóa nghệ thuật,
chống xu hướng thương mại hóa và đề phòng xu hướng phi chính trị hóa trong lĩnh
vực hoạt động nghệ thuật. Không ngừng đổi mới và nâng cao trình độ lãnh đạo,
quản lý văn học nghệ thuật theo hướng: phát huy dân chủ, bảo đảm quyền tự do sáng
tạo, bảo đảm điều kiện vật chất và tinh thần cho văn nghệ sĩ đi đôi với bảo đảm
định hướng chính trị của Đảng và Nhà nước. Kiên quyết khắc phục các “biểu hiện
giản đơn, thô thiển, thiếu dân chủ” trong lãnh đạo, quản lý văn học nghệ thuật.
Làm rõ hơn tính chất chính trị - xã hội,
nghề nghiệp của các tổ chức sáng tạo nghệ thuật ở Trung ương và địa phương
để có cơ chế lãnh đạo, quản lý và đầu tư phát triển tốt.
Câu 12: Phân tích vai trò của thông tin đại chúng đối với sự phát
triển văn hóa- xã hội trong giai đoạn hiện nay?
-
Thông tin đại chúng có vai trò vô cùng to lớn đối với sự phát triển văn
hóa, xã hội
-
Tác động của thông tin đại chúng
không chỉ đối với mỗi cộng đồng mà còn có thể vượt qua khuôn khổ các quốc gia
dân tộc, ảnh hưởng đến cả khu vực hoặc toàn cầu.
-
Thông tin đại chúng xuất hiện và tồn tại, phát triển là nhằm đáp ứng những
nhu cầu thông tin ngày càng đa dạng và phong phú của đông đảo công chúng.
-
Để thực hiện được hoạt động truyền thông trên phạm vi, quy mô rộng lớn cần
phải có các phương tiện kỹ thuật thích ứng như: in ấn, truyền hình, phát thanh,
video, phim nhựa, băng hình, băng âm thanh, truyền bản sao (fax), đĩa hình, đĩa
âm thanh, cáp quang, vệ tinh nhân tạo, máy tính cá nhân và mạng máy tình toàn cầu,
v.v.
-
Căn cứ vào tính chất kỹ thuật và
phương thức thực hiện truyền thông, người ta chia thông tin đại chúng thành các
loại hình khác nhau như: sách, báo in, phát thanh, truyền hình, điện ảnh, quảng
cáo, Internet, băng, đĩa hình và âm thanh…
·
Hiệu quả xã hội của thông tin đại chúng thể hiện
trên nhiều mặt:
@ Dư
luận xã hội là một hình thức
phổ biến , dễ nhận biết hiệu ứng xã hội của thông tin đại chúng.
@ Sức
mạnh về những khả năng lớn để giải quyết các nhiệm vụ của công tác tư tưởng
trên phạm vi toàn xã hội. Sức mạnh và khả năng to lớn đó thể hiện ở chỗ, các
phương tiện thông tin đại chúng là công cụ có thể tác động đồng thời, nhanh
chóng đến từng thành viên xã hội, liên kết các thành viên xã hội thông qua việc
truyền tải các thông tin.
Trong xã hội có giai cấp, thông tin đại chúng tất
yếu mang tính giai cấp. Ở nước ta, thông tin đại chúng vừa là tiếng nói của
Đảng, Nhà nước, vừa là diễn đàn của nhân dân.
Thông tin đại chúng ở nước ta góp phần vào việc hướng dẫn và hình thành dư luận xã hội
tích cực, đúng đắn, lành mạnh trên cơ sở thông tin nhanh chóng, đầy đủ, phong
phú và chân thật về các sự kiện, hiện tượng, những vấn đề nảy sinh trong đời
sống xẫ hội… Hơn thế, thông tin đại chúng còn phân tích, lí giải, chỉ ra bản
chất, tính quy luật của các sự kiện, biến cố, giúp nhân dân nhận thức và hành
động hợp lý, tích cực. Các phương tiện thông tin đại chúng tiến hành truyền bá,
giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của
Đảng và Nhà nước, trang bị những tri thức cần thiết làm cơ sở, điều kiện cho
việc hình thành quan điểm, lập trường, thái độ chính trị, xã hội đúng đắn, tiến
bộ và tích cực, tạo lập trong cán bộ, đảng viên và nhân dân thế giới quan, nhân
sinh quan khoa học và cách mạng, từ đó có ý thức tự giác cách mạng cao đối với
chế độ, với đất nước và dân tộc.
- Thông
tin đại chúng còn có chức năng giám
sát, kiểm soát và quản lý xã hội. Đối với xã hội hiện đại, các phương
tiện thông tin đại chúng phát hiện và cảnh báo kịp thời những vấn đề kinh tế -
xã hội, làm cho mọi tiến trình, mọi yếu tố hợp thành của xã hội có thể vận
động, phát triển phù hợp mục đích và mang lại hiệu quả tốt đẹp. Sự vận hành của
hoạt động quản lý xã hội thực chất cũng chính là dòng thông tin phong phú, liên
tục từ xã hội đến Đảng, Nhà nước, các cấp chính quyền và ngược lại.
- Thông
tin đại chúng tham gia giám sát sự
vận hành của các tiến trình chính trị, kinh tế, xã hội, phát hiện và cảnh báo
kịp thời những nguy cơ, những khó khăn phức tạp ảnh hưởng đến sự phát triển
chúng (sự giám sát của thông tin đại chúng trước hết nhằm vào các cơ quan tổ
chức quyền lực của bộ máy Nhà nước, các cán bộ, đảng viên có trách nhiệm trong
bộ máy công quyền). Đồng thời tham gia vào hoạch định và tổ chức thực hiện các
chính sách của Đảng và Nhà nước. Thông tin đại chúng còn trở thành diễn đàn dân
chủ rộng rãi của nhân dân tham gia quản lý xã hội. Đời sống xã hội càng được
phát huy dân chủ, nhân dân càng có nhiều điều kiện để tham gia giải quyết các
vấn đề chung của xã hội. Thông tin đại chúng là phương tiện quan trọng, có sức
mạnh to lớn trong việc tổ chức thực hiện mục tiêu dân chủ hóa, công khai hóa,
tạo ra các điều kiện thuận lợi cho nhân dân góp sức lực và tài năng để giải
quyết các vấn đề chung của đất nước.
- Với khả
năng tác động nhanh chóng, mạnh mẽ, rộng lớn các phương tiện thông tin đại chúng
là phương tiện truyền bá văn hóa, giáo dục, nâng cao dân trí, bồi dưỡng năng
lực sáng tạo và hưởng thụ văn hóa, đáp ứng nhu cầu căn hóa ngày càng cao của
các tầng lớp nhân dân lao động. Thông tin đại chúng đóng vai trò hết sức quan
trọng trong việc phát hiện, giới thiệu, truyền bá các tác phẩm văn học nghệ
thuật, các sản phẩm văn hóa trong đời sống xã hội.
- Thông tin đại chúng đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc truyền bá, lưu giữ, xây dựng nền
văn hóa của mỗi dân tộc, đồng thời cũng tạo thời cơ lớn cho sự tăng cường giao
lưu văn hóa giữa các dân tộc, các quốc gia, làm cho con người hiểu biết nhau
hơn. Những giá trị văn hóa của mỗi dân tộc, nhờ các phương tiện thông tin đại
chúng mà trở thành tài sản, giá trị chung của nhân loại và ngược lại mỗi dân tộc
có điều kiện tiếp thu những giá trị chung của văn hóa nhân loại. Sự hiểu biết
và đời sống tinh thần của nhân dân có khả năng được nâng cao và trở nên phong
phú hơn nhờ có những phương tiện kỹ thuật thuận lợi, giá trị chi phí ngày càng
rẻ. Điều này còn cho phép đông đảo nhân dân có điều kiện nâng cao dân trí,
thưởng thức văn hóa nghệ thuật, nâng cao đời sống tinh thần.
- Các
phương tiện thông tin đại chúng là vũ
khí quan trọng đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực trong đời sống
xã hội, chống những tàn dư văn hóa lạc hậu trong đời sống xã hội, chống lại ảnh
hưởng của văn hóa ngoại lai, xa lạ với truyền thống văn hóa Việt Nam, đấu tranh
với âm mưu truyền bá văn hóa phẩm độc hại, phản động và âm mưu “ diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch nhằm chống phá cách
mạng Việt Nam.
Thông tin đại chúng còn thực hiện chức năng giải
trí bằng nhiều hình thức, mức độ khác nhau và tùy theo đặc điểm của từng loại
hình phương tiện, về điều kiện tiếp nhận cho phép người dân ngày càng có nhiều
điều kiện để lựa chọn các giải trí. Trong điều kiện sống hiện nay, người ta có
thể thỏa mãn nhu cầu giải trí của mình qua các phương tiện thông tin đại chúng:
đọc báo, sách, xem truyền hình, xem băng hình, xem phim, nghe đài phát thanh,
nghe các loại băng âm thanh, truy cập internet v.v..
Có thể nói, thông tin đại chúng là phương tiện
đặc biệt có hiệu quả thực hiện các chức năng của văn hóa, từ nhận thức, giáo
dục, thẩm mỹ đến giao tiếp, giải trí và dự báo. Nó có vai trò quan trọng đối
với sự phát triển văn hóa xã hội.