Thứ Hai, 19 tháng 5, 2014

Các dân tộc thiểu số ở Việt Nam

Dân tộc Chăm

Giới thiệu về nhà ở, trang phục, đồ ăn, hút của người Chăm ở Việt Nam?

1.    Giới thiệu về người Chăm ở Việt Nam:
-      Tộc danh:
Chăm là tên gọi chính thức đã được công nhận. Trong thực tế, cộng đồng này còn được gọi là: Chàm, Hời, Chiên Thành, Chăm Pa, Juaan –Chăm, Chăm Hroi (Phú Yên), Chăm Poông (Nghĩa Bình), Chàvà (An Giang),…
-      Dân số và phân bố dân cư:
·        Vào khoảng những năm đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX, ở Việt Nam có khoảng 76.000 người Chăm, cư trú chủ yếu ở Ninh Thuận và Bình Thuận. Ngoài ra có một số ít người Chăm cư trú ở An Giang, Đồng Nai, Tây Ninh, Tp.HCM,…
·        Đến năm 2009, toàn quốc có 161.729 người Chăm. Phân bố cư trú ở các tỉnh: Ninh Thuận (gần 70 nghìn người), Bình Thuận (khoảng 35 nghìn người), Phú Yên (gần 20 nghìn người), An Giang (hơn 14 nghìn người), Tp.HCM, Bình Định, Đồng Nai, Tây Ninh, Bình Dương, Gia Lai, Bình Phước,…
-      Nhà ở, trang phục, đồ ăn, hút là nhân tố quan trọng trong văn hóa của người Chăm.
2.    Nêu và phân tích đặc điểm nhà ở người Chăm:
-      Người Chăm cư trú mật tập thành làng (palay), trong làng có nhiều nhà, ngăn cách bởi tường, rào chắc chắn.
·        Vùng Bình Thuận, làng Chăm quần tụ thành hình tròn.
·        Vùng An Giang, làng Chăm trải dài theo cù lao, kiểu đường phố.
·        ở Tp.HCM họ cư trú thành từng khu phố.
-      Theo một số thư tịch cổ, xưa kia người Chăm Ninh Thuận, Bình Thuận sinh sống trong các ngôi nhà sàn thấp. Ngày nay nhà sàn đã biến mất, chỉ còn dấu tích trong một số kiến trúc dân gian của người Chăm ở Bình Thuận. Hiện nay nhà của họ có những đặc điểm sau:
·        Vật liệu làm nhà của người Chăm: tre gỗ, rơm rạ, đất, cát,… Dụng cụ làm mộc: rìu, rựa, đục, cưa,… Kích thước các bộ phận của ngôi nhà tính bằng chiều dài các bộ phận cơ thể người: cánh tay, sải tay, gang tay, bước chân,…
·        Cấu trúc ngôi nhà Chăm: cột – kèo – xà ngang (vì kèo, kiểu người Việt), các bộ phận liên kết lại bằng con sỏ hoặc buộc bằng mây,…
·        Nhà có 4 mái phẳng, tường vách làm bằng cách trộn rơm, đất sét, bùn chat lên nhứng bằng tre.
·        Nhà có cửa ra vào, cửa sổ,…đều có cánh gỗ không dung bản lề mà dung trục quay xuyên qua ngưỡng trên và dưới (giống người Kinh).
·        Ván sàn cách mặt nền khoảng 40-50 cm, nền đất cao khoảng 50 cm, trần nhà sát mái chính, dày khoảng 20 cm, làm bằng bùn đất trộn rơm rạ, trong có nhứng tre, nứa…
-      Người Chăm An Giang ở nhà sàn có kết cấu kèo 5 cột, thường gồm 3 vì, liên kết bằng xà dọc. Nhà sàn cách mặt đất khoảng 1-1,50m; làm bằng gỗ; tường vách bằng ván thưng; cầu thang chính ở đầu hồi phía sau, 7 bậc; cầu thang phụ ở nơi rửa ráy, phơi phóng; nhà bếp riêng, song song nhà chính, nhỏ hơn nhà chính. Nhà có cầu thang dành cho phụ nữa vào nhà bếp không qua nhà chính.
3.    Nêu và phân tích đặc điểm trang phục người Chăm:
-      Y phục nam giới Chăm gồm:
·        Váy (bek khăn), tấm vải quấn xà rông
·        Áo lakay, ngắn chùm mông, xẻ giữa ngực, cài khuy, vạt trước có hai túi, xẻ tà, cổ đứng hình tròn.
·        Áo tah, dài đến mắt cá chân, dài tay, không xẻ giữa ngực, chỉ mở 10 cm để chui đầu (poncho), xẻ hai bên từ thắt lưng.
·        Áo pochar chả các Pochar hồi giáo, thụng, màu trắng, không xẻ tà.
·        Áo char bàni (áo plưt), giống áo pochar nhưng có thêu hoa văn hình mái vòm bằng chỉ đỏ ở ngực và sau có tua chỉ màu.
-      Y phục nữ giới Chăm:
·        Váy khăn, gồm váy mở và váy kín, dài quá gót, có trang trí hoa văn ở thân hoặc chân váy, một màu gọi là băn, nhiều màu gọi là băn koh, pha kim tuyến gọi là băn talay mưk.
·        Áo loak, áo dài, chui đầu, màu chàm, xanh lục, hồng…aokoh mặc thường ngày, ao sawk mặc ngày lễ tết, áo bà đồng bóng gọi là ao chăm.
·        Áo dài quá gối (ao tắk) áo chùm gót (ao doa bong), mở ngay eo hông, có hang khuy bấm, cổ hình lá trầu, trái tim, tròn,…
·        Áo lót (ao klăm) mặc bên trong áo dài.
·        Khăn đội đầu của người phụ nữ (hruk lưk) trang trí hoa văn dệt chỉ nhiều màu.
4.    Nêu và phân tích đặc điểm đồ ăn uống, hút của người Chăm:
-      Người Chăm ăn cơm thường ngày, đặc biệt là cháo chua, nấu cháo hoa, để nguội, đổ nước lã lên trên màng đông phía trên bát, nồi, để qua đêm sẽ chua, sau khi ăn gạn bỏ nước lã bên trên. Ngoài đồ ăn chế biến bằng thịt gia cầm, họ còn có đồ ăn chế biến từ thịt dỏ (mang, mền); món tung tapai (tian tapai), làm bằng thịt thỏ rằng băm thành từng miếng, lòng,…cắt nhỏ, kẹp tre tươi, nướng trên than hồng. Ngoài các món cá thông thường, họ còn có canh cá chua (nấu với me, cà chua, xoài…). Trong số các loại canh, người Chăm thích ăn món canh nấu bằng các loại rau băm nhỏ và gạo ngâm giã nhỏ. Họ có truyền thống chế biến các loại nước chấm từ cá biển: nước mắm (ia mưthin), mắm ruốc (mưthin trum), mắm tôm (mưthin hatay)…
-      Xưa kia, sau khi ăn người Chăm uống nước lã (nước giếng hoặc nước mưa). Khi tiếp khách, người Chăm uống rượu cất, hoặc rượu cần (tapay kon), trong thánh lễ người Chăm Bàni uống sữa dê.
-      Phụ nữ Chăm có tục ăn trầu. Trầu của họ gồm: trầu không, vôi, cau, thuốc lào. Trầu không của họ thường do lái buôn mua về từ trên vùng người Ra Giai, nên họ gọi là trầu nguồn (hala Raglai).
-      Cổ truyền cả nam giới và phụ nữ Chăm đều hút thuốc lào. Trồng thuốc lào trên rẫy là hoạt động kinh tế không thể thiếu của các gia đình người Chăm. Khi lá thuốc già, ngả màu vàng, họ hái mang về ủ, cuộn thành con dài hàng mét, bó chặt, sau đó thái nhỏ như sợi chỉ, mang phơi khô, trữ trong chum vại để dung dần.
5.    Nhận xét chung-Bảo tồn:

Dân tộc Mường

Nêu và phân tích những nghi thức cưới xin của người Mường ở Việt Nam?
Trả lời:
1.    Giới thiệu về người Mường:
-      Tộc danh:
Tùy theo từng vùng, tên tự gọi của họ là Mol, Mon, Muan, Mual, Ao Tá,…( Mol, Mon, Muan, Mual đều có nghĩa là người). Mường là tên gọi theo khu vực cư trú: Mường Bi, Mường Vang, Mường Thàng, Mường Động… Hiện nay, Mường là tên gọi chính thức của họ, đã được Chính phủ và Nhà nước Việt Nam công nhận.
-      Nguồn gốc lịch sử:
Người Mường có nguồn gốc bản địa, là một trong những thành phần đầu tiên của cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
-      Dân số và phân bố dân cư:
·        Mường là một trong năm dân tộc có dân số đông (sau Việt, Thái, Tày và Khơ-me). Theo số liệu điều tra năm 2009, hiện nay ở Việt Nam có khoảng 1.268.963 người Mường.
·        Người Mường cư trú tập trung ở các tỉnh: Hòa Bình (hơn 500 nghìn người), Thanh Hóa (khoảng 350 nghìn người), Phú Thọ (gần 200 nghìn người), Sơn La, Ninh Bình, Yên Bái,…
-      Cưới xin là một thành tố rất quan trọng của văn hóa Mường. Cũng như người Việt (Kinh), cưới xin của người Mường phải thực hiện đầy đủ các nghi thức theo trình tự: chọn mối (chọn mờ), ướm hỏi (kháo tiếng), dạm ngõ (mờ miệng), ăn hỏi (ti nòm/ ti nòm bánh), nhận rể, đón dâu (ti cháu/ ti du), lại mặt (ti môộng).
2.    Nêu và phân tích các nghi thức trước khi làm đám cưới:
-      Chọn mối (chọn mờ): thành ngữ Mường có câu “cơm ngon vì miếng, tiếng tốt vì mờ” hay “người bốc lên ao, người đào nên giếng”. Cưới xin với họ nhất định phải có mối. Mối thường là người đông con cháu, thạo đường ăn nói, giao tiếp. Theo họ: “hèn yếu chớ đi đào dúi, ngắn tiếng ngắn miệng chớ đi làm mối”. Xưa kia ở Mường Bi, quan lang sẽ gọi mối tới để trách cứ nếu các cặp vợ chồng họ làm mối ăn ở không hòa thuận.
-      Ướm hỏi (kháo tiếng): ngày cây trong (theo lịch Mường, ngày cây là những ngày tốt), vào buổi tối, mối thay mặt nhà trai sang thưa chuyện, đánh tiếng ướm hỏi với nhà gái. Thông thường, ngày kháo tiếng nhà gái không trả lời ngay mà xin nhà trai đợi vài hôm. Ước chừng vài ngày sau đó, nhà trai lại nhờ mối sang thụ nhận hồi ý của nhà gái.
-      Dạm ngõ (mờ miệng): mối thay mặt nhà trai mang trầu cau, chè, rượu, bánh,…sang nhà gái chính thức ngỏ lời với nhà gái. Nhà gái đồng thuận, hai bên cùng nhau chọn giờ, ngày chính thức làm lễ ăn hỏi (ti nòm bánh) cho đôi con trẻ.
-      Ăn hỏi:
·        Ti nòm bánh: theo tục lệ Mường, trước khi ăn hỏi họ còn thực hiện nghi thức chọn giờ, chọn ngày. Lễ vật cho nghi thức này là một con cá cắt làm 4 khúc gói trong lá dong, 4 bánh trưng không có nhân, 5 quả cau và 10 lá trầu không.
·        Ti nòm của người Mường gồm hai bước: lần đầu gọi là nòm gà, lần cuối gọi là nòm cả. Lần đầu, mối cùng hai thanh niên và cô em gái chú rể tương lai thay mặt nhà trai mang sang nhà gái đôi gà, hai gói cá, một vài chục chiếc bánh bẹng, vài gói cơm nếp,…làm cỗ cúng tổ tiên nhà cô gái. Sau đó là việc ăn mừng và bàn tính ngày giờ thực hiện nòm cả.
3.    Nêu và phân tích các nghi thức trong khi làm đám cưới:
-      Lễ cưới lần thứ nhất (còn gọi là nòm cả hoặc ti cháu): xưa kia, sau 3 năm khi nhà trai chuẩn bị đầy đủ, bà con nội ngoại đồng ý, lễ cưới sẽ được tiến hành. Lễ vật nhà trai phải mang sang nhà gái gồm: gạo (120 đấu/ 100kg), lợn vào trồ 1 con (20-25kg), thịt lợn (40-50kg), rượu (20 chai), cơm nếp đồ (3 chón), một buồng cau, trầu không (100 lá), 2-4 cây mía,…Chàng rể trang phục đẹp, thắt khăn trắng, gùi một chón cơm nếp bên trên đặt hai con gà trống thiến luộc chín. Hai phù rể (ti piềng) mỗi người gùi một chón cơm nếp đồ.
·        Theo lệ Mường, “ti cháu đáp trâu, ti du vàng mặt” (rể sang nhà gái lúc thả trâu/9-10h sáng, dâu về nhà chồng khi trời tối). Mối thay mặt nhà trai trao đồ thách cưới, khấn rượu. Sau đó nhà gái mời thi uống rượu cần (rảo cậy). Cuộc thi rượu kết thúc, hai họ cùng nhau ăn bữa cơm mừng, mối được nhà gái thiết một mâm riêng. Trước khi các thành viên nhà trai ra về, nhà gái mời họ uống rượu chao mang. Khi nhà trai xuống thang, các cô gái dùng bã rượu cần ném vào họ cho có nhiều phúc. Chàng rể và hai phù rể ở lại nhà gái để tiếp khách. Sang tối thứ ba, nhà gái làm cỗ tiếp rể (chụ cháu). Sáng sớm ngày thứ tư, rể và phù rể quay trở về nhà trai.
·        Từ đây cho đến hết thời hạn 3 năm, chàng rể tương lai phải phục dịch ăn công con (ăn công nuôi con) đối với gia đình nhà vợ. Tất cả các lễ tết hàng năm, chàng rể phải mang lễ đến biếu bố mẹ vợ (ti cơm non). Tết Nguyên đán, rể phải biếu bố vợ con lợn, thúng xôi, vài chục bánh mật, vài chai rượu, trầu cau. Tết Đoan ngọ và ngày Rằm tháng bảy, chàng rể phải biếu bố mẹ vợ đôi gà, vài gói cá, vài chai rượu. Cũng trong thời gian này, vào tết Nguyên đán, nhà gái thường cho cô dâu tương lai mang các sản phẩm dệt may sang biếu bố mẹ chồng. Thông thường, trong thời gian thử thách, dâu rể đều có trách nhiệm tham gia các công việc của cả hai gia đình. Thành ngữ Mường nói rằng: “tháng mười không đi mất chồng, tháng sáu không đi mất vợ”.
-      Lễ cưới chính thức (lễ đón dâu/ ti du):
·        Sau 3 năm thử thách, tìm hiểu, nếu mọi chuyện tốt đẹp, nhà trai cử ông mối mang gà, cá, rượu, trầu cau sang nhà gái xin làm lễ cưới để đón dâu (ti du). Cùng đi với mối có các anh chị em của chú rể. Nếu nhà gái đồng ý cho nhà trai đón dâu, họ sẽ thông báo số lễ vật thách cưới cho mối biết để báo với nhà trai.
·        Xưa kia nhà gái thường thách cưới: một con trâu đực đã biết cày bừa (hoặc một con bò), dăm thúng gạo, 2 con lợn (30kg/con), 5-6 thúng xôi, một buồng cau, trên trăm lá trầu không, 20 ống rượu trắng (khoảng 3-5 lít/ống). Nếu con nhà lang đi lấy chồng thì đồ dẫn cưới sẽ phải là 9 con trâu, 1 con bò, vài ba con lợn, dăm chiếc nồi đồng, sanh đồng, vài đôi vòng bạc, gạo, rượu, trầu cau.
·        Sau khi đã nhận được thách cưới của nhà gái, mối trở về thông báo để nhà trai chuẩn bị. Nhà gái mời người đến khâu màn và chuẩn bị đồ hồi môn cho cô dâu. Khoảng 2-3 ngày trước khi đón dâu, nhà trai tập trung chuẩn bị rất nhộn nhịp. Trai gái nội ngoại tập trung làm gạo, lấy củi, lấy nước. Các cụ ông chỉ đạo việc chọn trâu, chọn lợn, nấu rượu; các cụ bà chuẩn bị trầu cau. Những ngày này, mọi người trong họ nhà trai mang gạo, gà, rượu, củi hoặc vải đến giúp. Công việc chuẩn bị của cả họ nhà trai thường kéo dài đến vài đêm, khẩn trương và vui nhộn.
·        Đam cưới nhà lang kéo dài tới hàng tuần, đám cưới thường dân cũng phải kéo dài dăm ba ngày. Trước ngày đón dâu, mối dẫn đàu đoàn đi đón dâu, gồng gánh đồ dẫn cưới, dắt trâu, bò sang nhà gái. Ngoài ông mối, đi đón dâu còn có cô dì, chú bác, anh em nhà chú rể. Theo lệ Mường, đón dâu thường xuất phát buổi sớm, số người đi phải là chẵn. Xưa kia, đi đón dâu còn có cồng chiêng để biểu diễn, giao lưu với họ nhà gái.
·        Người đi đón dâu mang trang phục truyền thống, mới và đẹp. Chú rể và hai phù rể mang trang phục giống nhau, bên trong mặc áo trắng, ngoài khoác áo dài thâm (mặc kiểu đóng đôi), quần lụa hoặc nhiễu, đầu đội nón lá dừa. Nay trang phục dự cưới của người Mường cũng gần tương tự như người Việt, họ mặc âu phục cả.
·        Đến giờ đi đón dâu, sau một hồi cồng chiêng gióng lên, đi đầu là mối, tiếp đó là các cụ, công chiêng, sau cùng là bạn bè và anh em chú rể. Theo phong tục người Mường, đón và đưa dâu phải đi theo đường chính, qua ngã ba ngã tư phải đặt trầu, cau; những người tham gia phải đi đến nơi, về đến chốn, không tự ý bỏ dở hoặc rẽ ngang. Tiếng cồng theo đoàn đón dâu vang trên đường, báo việc hỷ với xóm xa xóm gần, họ hàng bên cô dâu nghe tiếng cồng để tề tựu, thịnh soạn đón họ hàng nhà trai.
·        Tới nhà gái, đoàn nhà trai được đón tiếp, họ cử người nhận đồ dẫn cưới. Sau nghi thức giao nhận đồ dẫn cưới là cuộc hát đối đáp mở lối và tung bã rượu để cầu phúc cho mọi người. Khi họ nhà trai lên sàn, hai họ chứng kiến nghi thức lễ tổ tiên và vái sống các bậc ông bà, cha chú bên vợ của chú rể. Những người được chú rể vái sống chúc phúc lại cho dâu rể và trao tặng phẩm cho họ.
·        Sau khi hai họ ăn cỗ, thi uống rượu cần, mừng dâu rể, đến giờ tốt đã chọn, mối thay mặt nhà trai xin đón dâu. Theo tục lệ, dâu và phù dâu (piềng du) mang trang phục truyền thống. Cô dâu khấn tổ tiên trên bàn thờ rồi vái sống ông bà, cha mẹ trước khi về nhà chồng. Theo tục lệ, cô dâu đội nón, tay cầm theo một con dao nhỏ để giữ vía, không được quay mặt nhìn lại phía sau. Của hồi môn gồm chăn, gối, màn, vải,…được họ hàng nhà  gái cử người mang theo. Trên đường đón dâu về mối là người lo liệu mọi chuyện, nhất là khi bị chăng dây, ngăn đường.
·        Về tới chân cầu thang nhà chồng, nàng dâu mới được cô em chồng giúp rửa chân trước khi bước qua bó củi lên cầu thang. Vào nhà, dâu đến lạy vua bếp, sau đó lễ tổ tiên và các bậc cha chú của chồng. Tại gian giữa sàn, đôi vợ chồng trẻ được mối làm lễ tơ hồng (cơm quel). Sau nghi thức này, hai họ ăn cỗ mừng cô dâu mới.
4.    Nêu và phân tích các nghi thức sau khi làm đám cưới:
-      Sau tiệc cưới, những người đưa dâu thường ra về ngay, nếu ở xa, họ phải ngủ lại qua đêm. Phù dâu thường ngủ bạn với cô dâu khoảng ba đêm sau ngày cưới. Sau đó, dâu, rể và phù dâu quay về nhà gái làm lễ lại mặt (ti môộng). Xưa kia, sau lễ lại mặt, đôi vợ chồng trẻ phải trải qua thời kỳ thử thách (bù ma ruộng) mới được chung chăn gối.

5.    Kết luận: Đánh giá, nhận xét bản chất và phát biểu quan điểm cá nhân về việt bảo tồn giá trị (giá trị vh,xh)

Đường lối văn hóa văn nghệ của ĐCS Việt Nam

TỔNG CỘNG 12 CÂU
Câu 1: Nêu hoàn cảnh  ra đời  và ý nghĩa lịch sử của bản Đề cương văn hóa Việt Nam  1943?
*  Chính sách văn hóa của Phát xít Nhật:
    - Tuyên truyền thuyết Đại đông Á: “ Đuổi người da trắng về Châu Âu và trả đất châu Á cho người da Vàng”.
    - Chương trình hợp tác Nhật –Việt: tuyển thanh niên đi học ở Nhật, tổ chức những đoàn tham quan và những hoạt động nghệ thuật tuyên truyền cho “ Văn hóa phù tang”. Viện Văn hóa Nhật được thành lập, thường xuyên tổ chức triển lãm, diễn thuyết, xuất bản, báo chí, biểu diễn ca nhạc, diễn kịch, chiếu phim, du lịch, phục hồi những quan điểm đạo đức cổ hủ và giả dối của giai cấp địa chủ phong kiến, lại vừa tuyên truyền lối sống dâm ô, đồi trụy của giai cấp tư sản. Chúng vừa khuyến khích mê tín dị đoan, hủ tục, vừa du nhập các trào lưu văn hóa phản động mệnh danh là “mới”. Chúng tung tiền ra để sử dụng bè lũ tay sai, tổ chức các cơ quan và đoàn thể văn hóa nhằm nhồi sọ, ru ngủ và lừa bịp đồng bào chúng ta
    - Mục đích đánh lạc hướng được người dân Việt Nam khỏi con đường cứu nước của Đảng
    - Ảnh hưởng: một số văn nghệ sĩ Việt Nam đã ca tụng phong tục, tập quán và tinh thần “Võ sĩ đạo” của Nhật. Một số người trong bọn họ đã làm tay sai cho Nhật
* Tư tưởng Tờ-rốt-kít : chủ nghĩa duy vật thô thiển, thực chất là duy tâm chủ quan. Bọn Tờ-rốt-kít phủ nhận những di sản của quá khứ trong lúc cách mạng đang phát huy truyền thống anh hùng và yêu nước của dân tộc Việt Nam. Vu khống Đảng ta là đi theo con đường dân tộc chủ nghĩa và cải lương,
-         Để giúp các tầng lớp thanh niên và trí thức khỏi ảnh hưởng nguy hại của bè lũ phát xít và tay sai, hướng họ vào mục tiêu cứu nước. Đảng cần phải vạch trần những thủ đoạn lừa bịp và quan điểm phản động của bè lũ thống trị và tay sai.
-         Mâu thuẫn giữa phát xít Nhật- Pháp với toàn thể nhân dân ta ngày càng trở nên sâu sắc, tạo ra sự phân hóa rõ ràng trong các tầng lớp trí thức
@ Một số trí thức đã đi theo tiếng gọi của Đảng
    @  Một số ít đứng hẳn về phía bọn xâm lược
    @ Đông đảo tầng lớp trí thức hoang mang, do dự, bi quan, hoài nghi trước ngã ba đường của lịch sử.
-         Trước tình hình trên, ngày 25 tháng 2 năm 1943, Hội nghị Thường vụ của Trung ương Đảng ta đã nhận định: “Đảng cần phải có cán bộ chuyên môn hoạt động về văn hóa đặng gây ra một phong trào văn hóa tiến bộ, văn hóa cứu quốc, chống lại văn hóa phát xít, thụt lùi. Ở những đo thị văn hóa như Hà nội, Sài Gòn, Huế…phải gây ra tổ chức văn hóa cứu quốc và phải dùng hình thức công khai hay bán công khai, đặng đoàn kết các nhà văn hóa và trí thức…”
-         Đề cương văn hóa Việt Nam(1943) ra đời trước những yêu cầu cấp thiết đó. Đó là bản tuyên ngôn chính thức đầu tiên của Đảng ta về văn hóa- nghệ thuật.
Câu 2: Phân tích những quan điểm chỉ đạo của Đảng trong bản Đề cương văn hóa 1943?
     * Đề cương phản ánh toàn bộ đời sống xã hội, vào ý thức của con người; thể hiện phong phú trên các mặt: tư tưởng học thuật và nghệ thuật Đảng chủ trương đoàn kết đội ngũ những người hoạt động văn hóa và giúp đỡ họ tiến bộ, trở thành những chiến sĩ tự giác trên mặt trận văn hóa cách mạng.
      * Quan điểm cơ bản về cách mạng văn hóa, chỉ ra mối quan hệ khăng khít giữa cách mạng chính trị, cách mang kinh tế và cách mạng văn hóa; Cách mạng chính trị phải thắng trước rồi cách mạng kinh tế và cách mạng văn hóa mới có điều kiện thắng sau.
    * Đề cương nhấn mạnh : Vai trò lãnh đạo của Đảng. Đứng trên lập trường của giai cấp công nhân, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm tư tưởng, chỉ có Đảng mới hướng cuộc vận động cách mạng văn hóa Việt Nam vào con đường đúng đắn và đạt tới đích cuối cùng.
    * Tổ chức các đoàn thể văn hóa cách mạng, Đảng đề ra: cần thành lập và phát triển Hội văn học cứu quốc Việt Nam, kết nạp những người làm công tác văn hóa, giáo dục, khoa học và văn học, nghệ thuật.
    * Đề cương văn hóa thể hiện tinh thần cách mạng triệt để của Đảng cộng sản Đông Dương và của giai cấp công nhân Việt Nam. Đề cương phục vụ đắc lực cho chính sách mặt trận dân tộc thống nhất, chính sách đại đoàn kết dân tộc, tập trung lực lượng yêu nước và tiến bộ, cô lập kẻ thù để đánh đổ chúng, nhằm đạt mục đích của cách mạng.
    * Đề cương đề ra cho giới trí thức, văn nghệ sĩ Việt Nam, ngoài nhiệm vụ chung là giải phóng dân tộc giành độc lập, tự do còn có sứ mệnh thiêng liêng là giải phóng văn hóa và xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam.
Câu 3: Nêu những yêu cầu đặt ra đối với việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc?
- Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là nhiệm vụ to lớn, khó khăn, lâu dài đòi hỏi phải phát triển nền văn hoá dân tộc lên một trình độ mới.
- Việc mở cửa hội nhập quốc tế để tiếp thu, tiếp biến các thành tựu văn hoá - văn minh nhân loại để công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đặt ra yêu cầu phát triển văn hoá dân tộc.
- Xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc nhằm thực hiện mục tiêu của xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta  hướng tới và khắc phục sự suy thoái của tư tưởng, đạo đức, lối sống hiện nay.
- Xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc nhằm khắc phục mặt tiêu cực của xu thế toàn cầu hoá hiện nay.

Câu 4: Phân tích phương hướng xây dựng nền Văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc?
Phương hướng chung của sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hoá là:
- Tạo ra trên đất nước ta đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát triển, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
- Phát huy chủ nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kết, ý thức độc lập tự chủ, tự cường dân tộc.
- Bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại.
- Làm cho văn hoá thấm sâu vào các lĩnh vực kinh tế – xã hội, và từng cá nhân, nhóm, cộng đồng.
- Xây dựng và hoàn thiện nhân cách của con người Việt Nam hiện đại (Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X).
Câu 5: Nêu những quan điểm chỉ đạo của Đảng đối với việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc? Phân tích quan điểm 2 hoặc 3?
Để xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam trong thời đại ngày nay cần chú ý đến năm quan điểm cơ bản sau đây:
a.Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội (Quan điểm về vai trò của văn hoá)
Quan điểm này chỉ rõ vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của văn hóa. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, văn hóa thể hiện sức sống, sức sáng tạo, phát triển và bản lĩnh của một dân tộc. Văn hóa có mối quan hệ thống nhất biện chứng với kinh tế. chính trị, xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu cuối cùng là văn hóa. Trong mỗi chính sách kinh tế xã hội luôn bao hàm nội dung và mục tiêu văn hóa. Văn hóa có khả năng khơi dậy tiềm năng sáng tạo của con người, nguồn nhân lực quyết đinh cho sự phát triển của xã hội.
b. Nền văn hoá mà chúng ta xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc (Quan điểm về tính chất của nền văn hoá)
Nền văn hóa tiên tiến là nền văn hóa có nội dung yêu nước và tiến bộ. Nền văn hóa nước ta thể hiện sức phát triển sáng tạo của dân tộc, các lĩnh vực của nền văn hóa Việt Nam có trình độ phát triển ngang tầm với các nước có trình độ tiên tiến trên thế giới, Những giá trị văn hóa truyền thống được kết tinh và tập hợp các tinh hoa văn hóa cộng đồng các dân tộc, tiếp thu và hòa quyện với các giá trị tiến bộ của văn hóa nhân loại, để đạt tới các giá trị cao cả, chân thiện mỹ.
c. Nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam (Quan điểm về mối quan hệ văn hoá dân tộc và văn hoá tộc người ở nước ta)
Nét đặc trưng nổi bật của văn hóa Việt Nam là sự thống nhất mà đa dạng, trên cơ sở hòa quyện bình đẳng sự phát triển của văn hóa dân tộc anh em cùng sống trên lãnh thổ Việt nam. Mỗi thành phần dân tộc có truyền thống và bản sắc của mình, cả cộng đồng dân tộc Việt Nam có nền văn hóa chung thống nhất. Sự thống nhất bao hàm cả tính đa dạng; đa dạng trong sự thống nhất. Không có sự đồng hóa hặc thôn tính, kỳ  thị.
d. Xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo trong đó đội ngũ tri thức giữ vai trò quan trọng (Quan điểm chủ thể của nền văn hoá nước ta)
Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiêp của toàn dân. Giai cấp công nhân, nông dân trí thức là nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc; đồng thời là lực lượng chủ lực, nòng cốt xây dựng và phát triển văn hóa. Đội ngũ trí thức, văn nghệ sỹ gắn bó với nhân dân lao động được Đảng, Nhà nước và nhân dân tôn trọng, tạo điều kiện phát huy tài năng phục vụ nhân dân, cống hiến cho sự phát triển văn hóa của nước nhà do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý. Chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của nền văn hóa Việt Nam.
e. Văn hoá là một mặt trận. Xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp cách mạng lâu dài cần có ý chí cách mạng và sự kiên trì thận trọng (Quan điểm về tính cách mạng trong xây dựng nền văn hoá hiện nay).
Xây dựng nền văn hóa là quá trình đấu tranh kiên trì bền bỉ, lâu dài để giữ gìn và phát huy giá trị, bản sắc dân tộc, đấu tranh chống lại tàn dư của chế độ cũ và sự xâm nhập, phá hoại của các yếu tố tiêu cực, ngoại lai. Xây dựng nền văn hóa trong giai đoạn cách mạng này phải kết hợp giữa “xây” và “chống”, lấy xây là chính để chiến thắng cái cũ, cái lạc hậu. Xây dựng các giá trị văn hóa mới. con người mới là quá trình lâu dài, gian khổ, đòi hỏi kiên trì, bền bỉ, sự dũng cảm, ý chí quyết tâm và tinh thần sáng tạo.
Câu 6: Nêu những nhiệm vụ cụ thể để xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc?
Nhiệm vụ trung tâm đó được Nghị quyết trung ương V khóa VIII (1998) triển khai với 10 nhiệm vụ cụ thể:
a. Nhiệm vụ thứ nhất: xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới
b. Nhiệm vụ thứ hai: xây dựng môi trường văn hoá
c. Nhiệm vụ thứ ba: phát triển sự nghiệp văn học và nghệ thuật
d. Nhiệm vụ thứ tư: bảo tồn và phát huy các di sản văn hoá
đ. Nhiệm vụ thứ năm: phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo và khoa học công nghệ.
e. Nhiệm vụ thứ sáu: phát triển đi đôi với quản lý tốt các phương tiện thông tin đại chúng
f. Nhiệm vụ thứ bảy: bảo tồn, phát huy và phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số
g. Nhiệm vụ thứ tám: chính sách văn hoá đối với tôn giáo
h. Nhiệm vụ thứ chín: mở rộng hợp tác quốc tế về văn hoá
i. Nhiệm vụ thứ mười: củng cố, xây dựng và hoàn thiện các thể chế văn hoá
Nhiệm vụ cụ thể đầu tiên cũng là nhiệm vụ trung tâm của công cuộc xây dựng và phát triển văn hóa ở nước ta trong thời kỳ đổi mới là nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam với 5 đức tính sau:
- Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
- Có ý thức tập thể, đoàn kết phấn đấu vì lợi ích chung
- Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái
- Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng suất cao vì lợi ích của bản than, gia đình, tập thể, xã hội
- Thường xuyên học tập, nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mỹ và thể lực.
Năm cụm đức tính con người nêu lên trong Nghị quyết trung ương 5 khóa VIII, vừa có kế thừa những đức tính truyền thống, vừa đáp ứng những yêu cầu xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn mới.
Câu 7: Văn hóa đạo đức là gì? Nêu những thành tố tạo nên nền văn hóa đạo đức?
Nêu khái niệm “văn hóa đạo đức” được các nhà lý luận văn hóa Xô Viết dùng đầu tiên để chí “văn hóa đạo đức của hành vi con người”. Họ cho rằng: “Nói văn hóa đạo đức là phải nói tới hành vi con người. Bởi vì văn hóa đạo đức không thể tồn tại ngoài những hình thức cụ thể của hành vi, không chỉ dừng lại ở đạo đức. Cho nên, ở đây nói đến văn hóa đạo đức giới khoa học Việt Nam sử dụng và dần dần xác định rõ hơn nội dung của khái niệm: Thuật ngữ “văn hóa đạo đức” dùng để chỉ một bộ phận của văn hóa tinh thần xã hội. Bộ phận ấy không chỉ là “văn hóa đạo đức của hành vi” mà còn “bao gồm những nguyên lý (đạo lý), quy tắc chuẩn mực điều tiết hành vi con người” và cả hệ thống thiết chế xã hội – văn hóa, giúp cho các nguyên lý, quy tắc và chuẩn mực đạo đức được vận thông trong đời sống xã hội. Vậy có thể đưa ra một khái niệm về văn hóa đạo đức như sau: Văn hóa đạo đức là một bộ phận (thành tố) của văn hóa tinh thần xã hội biểu hiện trình độ người của các quan hệ xã hội, bao gồm tổng thể các giá trị, chuẩn mực đạo đức của một cộng đồng, được cộng đồng thừa nhận và chấp nhận. Chúng được đem vào vận hành trong đời sống cộng đồng thông qua các thiết chế xã hội – văn hóa và được biểu hiện ở hành vi đạo đức của cá nhân, nhóm, cộng đồng.
Nhìn từ phương diện cấu trúc, văn hóa đạo đức là một thành tố của văn hóa tinh thần (hệ thống lớn), cùng tồn tại và tương tác với các thành tố khác như văn hóa chính trị, văn hóa pháp luật, văn hóa thẩm mỹ và văn hóa nghệ thuật v.v.. Nếu xét riêng, văn hóa đạo đức là một tiểu hệ thống bao gồm các yếu tố: giá trị đạo đức, chuẩn mực, khuôn mẫu đạo đức, hành vi đạo đức và thiết chế xã hội – văn hóa về đạo đức v.v..
Nhìn từ phương diện trình độ người của các quan hệ xã hội, văn hóa đạo đức biểu hiện trình độ ứng xử của con người với con người, với xã hội và với tự nhiên một cách có văn hóa và đúng với văn minh. Ứng xử có văn hóa là ứng xử nhằm nâng cao trình độ nhân tính, làm cho con người tốt hơn, đẹp hơn và hữu ích hơn, tóm lại là nhân bản hơn, nhân văn hơn và người hơn. Ứng xử với văn minh là ứng xử phù hợp với trình độ kinh tế, trình độ sản xuất vật chất, trình độ của khoa học và công nghệ mỗi thời đại.
     * Nêu những thành tố tạo nên nền văn hóa đạo đức?
Từ quan niệm trên về văn hóa đạo đức, người ta dễ dàng nhận thấy cấu trúc của nó bao gồm  bốn thành tố cơ bản sau: Các giá trị đạo đức tập hợp thành bảng giá trị, thang giá trị; hệ thống chuẩn mực; khuôn mẫu đạo đức; hệ thống thiết chế xã hội – văn hóa về đạo đức (hệ thống thiết chế đạo đức) và các hành vi biểu hiện văn hóa đạo đức của cá nhân và cộng đồng.
-Hệ thống các giá trị đạo đức
Giá trị đạo đức là các nguyên tắc (đạo lý), quy tắc về các phương thức ứng xử đã được cộng đồng lựa chọn, thừa nhận và chấp nhận, trở thành kinh nghiệm tập thể của mỗi cộng đồng. Chúng đáp ứng tối ưu các nhu cầu của cá nhân và cộng đồng trong quan hệ với người khác và với cộng đồng (gia đình, làng xã, dân tộc, giai cấp, tổ quốc,..). Các giá trị đạo đức có vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần của cá nhân và cộng đồng, người ta cần đến chúng như một nhu cầu (cân bằng nội tâm), một lẽ sống (lý tưởng sống), một sức mạnh(động lực tinh thần) của cá nhân và cộng đồng.
Hệ thống giá trị đạo đức là toàn bộ các giá trị đã được trải nghiệm, được sắp xếp theo một trật tự, thứ bậc: cao – thấp, phổ biến – cục bộ, lâu dài – trước mặt, phố quát – phát sinh v.v.. để định hướng hành động, cố kết cộng đồng và đánh giá hành vi đạo đức của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng.
-Hệ thống chuẩn mức và khuôn mẫu đạo đức
Hệ thống chuẩn mực đạo đức là hệ thống các quy tắc, các cách thức cụ thể, định rõ con người nên ứng xử như thế nào trong các tình huống, hoàn cảnh cụ thể cho phù hợp với các giá trị đạo đức của cộng đồng. Chúng chính là sự cụ thể hóa, là sự vận dụng giá trị đạo đức vào hành vi thực tiễn của con người, cấm đoán, chúng dẫn dắt hành vi của con người. Chúng lặp đi lặp lại trở thành khuôn mẫu hành động, thành phong tục tập quán, nếp sống cá nhân và cộng đồng.
Khuôn mẫu mang một ý nghĩa biểu trưng cho một chuẩn mực nào đó. Dần dần chúng trở thành thói quen trong đời sống của các cá nhân và cộng đồng, ăn sâu vào tâm thức của họ.
          -Hệ thống thiết chế xã hội – văn hóa đạo đức
Để đảm bảo cho sự trao truyền, giáo hóa đạo đức diễn ra liên tục và bảo đảm cho các giá trị, chuẩn mực, hành vi đạo đức được vận thông, mỗi cộng đồng cần đến hệ thống thiết chế xã hội – văn hóa thực hiện các chức năng trên. Hệ thống thiết chế xã hội – văn hóa về đạo đức bao gồm các thiết chế gia đình, nhà trường, nhà nước, đoàn thể chính trị - xã hội, tôn giáo… Chúng được hình thành trên cơ sở quan hệ giữa các thành viên trong nhóm, cộng đồng với các quy chế, quy định, quy ước, thể lệ, điều lệ, giới luật của nhóm, cộng đồng ấy.Chúng có sức mạnh vật chất và tinh thần để thực hiện các chức năng mà xã hội đòi hỏi.
-Hành vi đạo đức của cá nhân và cộng đồng
Hành vi đạo đức của cá nhân và cộng đồng là hành vi mang tính thực tiễn xã hội, có ý nghĩa tích cực đối với đời sống cá nhân và cộng đồng tiến bộ, nhân bản, nhân văn). Hành vi đạo đức là hành vi mang tính nhân văn về mục tiêu mà phải mang tính nhân văn về cả phương thức, phương tiện thực hiện. Như vậy hành vi đạo đức phải là hành vi có sự gắn kết giữa mục đích, động cơ, phương tiện để đạt hiệu quả xã hội tích cực, đem lại hanh phúc cho cá nhân và cộng đồng.

Câu 8: Nêu thực trạng văn hóa đạo đức trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam?

 3.2.1. Những biến đổi tích cực

Trong những năm đổi mới nhiều nét mới trong các giá trị, chuẩn mực đạo đức được hình thành theo xu hướng nhân văn hơn, nhân bản hơn. Sự quan tâm của xã hội đến con người một cách trực tiếp hơn
Do có sự đổi mới kinh tế - xã hội mà tính “tích cực công dân” ( năng động cá nhân) được phát huy, lợi ích cá nhân, sáng kiến cá nhân, sự lựa chọn cá nhân và năng lực cá nhân được khuyến khích. Không khí dân chủ được mở rộng ra và tăng lên cùng với sự tự do cá nhân. Quy chế dân chủ mà Đảng đề xướng và quần chúng nhân dân đòi hỏi cơ sở chứng minh cho điều đó.
Những hoạt động hướng thiện trở thành phong trào xã hội, hướng về cội nguồn dân tộc, cách mạng và kháng chiến. Các hoạt động “đền ơn đáp nghĩa”, “xóa đói giảm nghèo” và “cứu trợ nạn nhân của tệ nạn xã hội” v.v.  đã được cả xã hội hưởng ứng. Nhiều cá nhân và nhóm xã hội đã chú ý phục hồi những quan hệ đạo đức truyền thống tốt đẹp: gia đình, họ tộc, bạn bè, thầy trò, đồng đội, đồng hương v.v.. Một lối sống văn hóa và một nền đạo đức của lối sống mới đang trong quá trình hình thành với những biểu hiện tích cực.

3.2.2. Những biến đổi tiêu cực

Đã xuất hiện nhiều vấn đề nổi cộm và hết sức phức tạp trong thực tiễn của văn hóa đạo đức và lối sống hiện nay. Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VII (1998) đánh giá: “Tệ sung bái nước ngoài, coi thường giá trị văn hóa dân tộc, chạy theo lối sống thực dụng, cá nhân vị kỷ,.. đang gây hại đến thuần phong mỹ tục của dân tộc. Không ít trường hợp vì đồng tiền và danh vị mà chà đạp lên tình nghĩa gia đình, quan hệ thầy trò, đồng chí, đồng nghiệp. Buôn lậu, tham nhũng phát triển. Mại dâm và các tệ nạn xã hội khác gia tăng. Nạn mê tín dị đoan phổ biến. Nhiều hủ tục cũ, mới lan tràn, nhất là việc cưới, việc tang và lễ hội”. Những hiện tượng tiêu cực trong lực lượng lãnh đạo xã hội là điều đáng báo động, từ đầu những năm 1990 đến nay càng “phổ biến hơn”, “tinh vi hơn”, “nghiêm trọng hơn”, trở thành căn bệnh trầm trọng của đời sống xã hội như Hội nghị Trưng ương năm khóa VII đã cảnh báo: “ Nghiêm trọng hơn là sự suy thoái về đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên trong đó có cả cán bộ có chức, có quyền. Nạn tham nhũng dùng tiền của Nhà nước tiêu xài phung phí, ăn chơi sa đọa không được ngăn chặn có hiệu quả. Hiện tượng quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu nhân dân, kèn cựa địa vị, cục bộ, địa phương, bè phái, mất đoàn kết khá phổ biến”.

3.3.3. Nguyên nhân của những biến đổi tích cực

Là do đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước phù hợp với yêu cầu khách quan của đời sống xã hội, trở thành định hướng đúng đắn cho sự phát triển đất nước. Nhờ đó chúng ta đã có những thành tựu đáng kể trong việc xây dựng văn hóa đạo đức và lối sống. Nhân dân ta có truyền thống đạo đức và lối sống tốt đẹp nên đã tham gia tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nền văn hóa và lối sống mới vì hạnh phúc của cá nhân và cộng đồng.

3.3.4. Nguyên nhân dẫn đến những biến đổi tiêu cực

Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII nêu lên, với các nguyên nhân khách quan là:
1) Sự xụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu gây hoang mang, dao động.
2) Các thế lực thù địch chống phá nước ta với âm mưu “diễn biến hòa bình”
3) Cơ chế thị trường và tác động của xu thế toàn cầu hóa với các mặt trái của chúng.
4) Nước ta còn nghèo lại chiến tranh dẫn đến mức sống còn thiếu thốn.
Hội nghị cũng nêu ra các nguyên nhân chủ quan là:
1)  Chưa coi trọng việc xây dựng, giáo dục về tư tưởng, đạo đức và lối sống
2)  Xử lý những phần tử thoái hóa biến chất trong bộ máy Đảng và Nhà nước chưa nghiêm
3)  Trong lãnh đạo và quản lý có những biểu hiện buông lỏng, né tránh, hữu huynh
4)  Chưa có cơ chế phát huy nội lực của nhân dân trong đó có văn hóa đạo đức và lối sống
Ngoài ra còn phải thấy rõ những nguyên nhân sâu xa về lịch sử xã hội là:
-      Chúng ta xây dựng nền văn hóa đạo đức và lối sống mới từ văn hóa đạo đức và lối sống của giai đoạn đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc sang giai đoạn hòa bình xây dựng đất nước với các mục tiêu, giá trị, chuẩn mực mới.
-      Chúng ta xây dựng nền văn hóa đạo đức và lối sống mới từ văn hóa đạo đức và lối sống thời bao cấp, sản xuất, phân phối theo kế hoạch, sang nền văn hóa đạo đức và lối sống của thời kỳ kinh tế thị trường, hạch toán kinh doanh, phân phối theo lao động với những yêu cầu giá trị, chuẩn mực mới.
-      Chúng ta xây dựng nền văn hóa đạo đức và lối sống mới từ văn hóa đạo đức và lối sống của xã hội cổ truyền nông dân – nông nghiệp – nông thôn, sang nền văn hóa đạo đức và lối sống của xã hội hiện đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa với những đòi hỏi mới.
-      Chúng ta chưa thấy hết được những hậu quả do một số sai lần trong đường lối, chủ trương về kinh tế - xã hội ( mô hình kinh tế - xã hội, cải tạo công thương nghiệp…), về giáo dục phiến diện mấy chục năm qua.
Câu 9: Phân tích các giải pháp cơ bản để xây dựng nền văn hóa đạo đức ở Việt Nam?

3.3.1. Phát triển kinh tế - xã hội lấy con người làm mục tiêu và quan tâm tới lợi ích của nhân dân lao động

Đạo đức không sinh ra từ đạo đức, mà do những điều kiện kinh tế, sản xuất của xã hội quyết định. Muốn tạo ra nền văn hóa đạo đức và lối sống mới phải xây dựng cơ sở kinh tế cho chúng hình thành và phát triển. Hơn nữa, đối với nước ta là một nước nghèo, chậm phát triển lại đang có nguy cơ tụt hậu về kinh tế, vấn đề phát triển kinh tế là vấn đề mang ý nghĩa sống còn. Giải pháp phát triển kinh tế là giải pháp có tính nguyên tắc trên cơ sở lý luận duy vật của chủ nghĩa Mác và tư tưởng Hồ Chí Minh về xã hội. C.Mác chỉ ra rằng: người ta trước hết phải ăn, mặc, ở, đi lại sau mới bàn đến chính trị, khoa học, nghệ thuật và đạo đức. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Người dân lấy cái ăn bằng trời, nếu không có ăn là không có trời”. Vậy, muốn có một nền văn hóa đạo đức tốt đẹp phải có một điều kiện vật chất, kinh tế tương xứng. Muốn có một lối sống đẹp phải có một mức sống vật chất nhất định.
Quan tâm đến lợi ích của con người, trước hết là lợi ích kinh tế, là một nguyên tắc của nền văn hóa đạo đức và lối sống mới. “Lợi ích được hiểu một cách đúng đắn là cơ sở của toàn bộ đạo đức”.(C.Mác).
Phát triển kinh tế phải gắn liền với phát triển văn hóa, xã hội một cách hiện thực, trực tiếp ở từng cơ sở, từng địa phương, từng người như quan điểm mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu “ Mọi kế hoạch đầu tư xây dựng và phát triển gắn với kế hoạch đầu tư cho chính sự phát triển về nhân cách, trí tuệ, tình cảm, niềm tin, hạnh phúc của mỗi người dân, mỗi gia đình ngay ngày hôm nay”.

3.3.2. Xây dựng một mô hình kinh tế -xã hội hợp lý để xây dựng mô hình nhân cách đạo đức và lối sống

Chiến lược phát triển đất nước quyết định chiến lược xây dựng con người chủ thể của nền văn hóa đạo đức và lối sống. Mô hình kinh tế - xã hội đúng đắn, hợp lý, thực tế thì sẽ giúp cho con người “ đi theo điều thiện một cách nhẹ nhàng” ( Mạnh Tử)
Mô hình kinh tế - xã hội không phù hợp với thực tế chỉ hướng tới một tương lai mong muốn, một tương lai ước muốn, sẽ “trở thành áp đặt, cưỡng bức thì đối với nó, người ta có thái độ hai mặt, giả dối, cho đến khi công khai phủ nhận”
Câu 10: Văn hóa nghệ thuật là gì? Cấu trúc của văn hóa nghệ thuật bao gồm mấy thành tố?
Cho đến nay, Giới nghiên cứu đều thống nhất cho rằng: Văn hóa nghệ thuật là một bộ phận của đời sống văn hóa tinh thần, là thành tố trọng yếu nhất của văn hóa thẩm mỹ. Văn hóa nghệ thuật không chỉ bao gồm toàn bộ các giá trị nghệ thuật ở các loại hình nghệ thuật, mà là tổ hợp của nhiều thành tố có mối liên hệ hữu cơ quy định lẫn nhau.
 * Cấu trúc của văn hóa nghệ thuật bao gồm mấy thành tố?
Bao gồm bốn thành tố chính là:
+ Nghệ sĩ
+ Tác phẩm nghệ thuật
+ Công chúng nghệ thuật
+ Các thể chế, thiết chế về lãnh đạo, quản lý văn hóa nghệ thuật
Các thành tố trên không tồn tại độc lập mà có mối quan hệ hữu cơ, ảnh hưởng và quy định lẫn nhau. Cơ chế hoạt động văn hóa nghệ thuật bao gồm quá trình sáng tạo, quá trình bảo quản, truyền bá, phổ biến và tiêu thụ các giá trị nghệ thuật, quá trình lãnh đạo và quản lý nghệ thuật… của các cá nhân, các cơ quan tổ chức, thiết chế vừa bảo đảm định hướng chính trị của Đảng và Nhà nước vừa bảo đảm quyền tự do sáng tạo và tính đặc thù của văn hóa nghệ thuật.

Câu 11: Phân tích nhiệm vụ phát triển văn học nghệ thuật trong giai đoạn hiện nay?
*  Nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là “Phấn đấu sáng tạo nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao, thấm nhuần tinh thần nhân văn, dân chủ, có tác dụng xây dựng con người… Hướng văn nghệ nước ta phản ánh hiện thực sinh động, chân thực và sâu sắc sự nghiệp của nhân dân trong cách mạng và kháng chiến, trong xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc cũng như tái hiện lịch sử kiên cường, bất khuất của dân tộc. Đặc biệt khuyến khích các tác phẩm về công cuộc đổi mới thể hiện nổi bật những nhân tố tích cực trong xã hội, những nhân vật tiêu biểu của thời đại. Cổ vũ cái đúng, cái tốt, cái đẹp trong quan hệ giữa người với người, giữa con người với xã hội, với thiên nhiên, phê phán những thói hư tật xấu, lên án cái ác, cái thấp hèn. Sáng tạo nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật cho thiếu niên, nhi đồng với hình thức, nội dung thích hợp, nghiêm cấm xuất bản loại sách kích thích bạo lực ở trẻ em”.
Văn học nghệ thuật tiếp tục phát triển theo kịp với những đòi hỏi ngày càng cao của công cuộc đổi mới, theo kịp đòi hỏi của công chúng có trình độ văn hóa và năng lực thẩm mỹ ngày càng cao.
 Đảng “Khuyến khích tìm tòi, thể nghiệm mọi phương pháp, mọi phong cách sáng tác vì mục đích đáp ứng đời sống tinh thần lành mạnh, bổ ích cho công chúng. Bài trừ các khuynh hướng sáng tác suy đòi, phi nhân tính. Bài trừ các khuynh hướng sáng tác đi đôi với nêu cao trách nhiệm công dân, trách nhiệm xã hội của văn nghệ sĩ, các nhà văn hóa”
- Quyền tự do sáng tác của văn nghệ sĩ nằm trong sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo và được quy định bởi trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi người đối với Tổ quốc, nhân dân và chủ nghĩa xã hội.
- Tư do sáng tác trong văn học nghệ thuật là tự do phục vụ nhân dân, Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội, Tự do sáng tác gắn liền với việc nêu cao trách nhiệm công dân, trách nhiệm xã hội của người nghệ sĩ trước Tổ quốc
 - Các cấp ủy Đảng và chính quyền Nhà nước, các đoàn thể chính trị - xã hội nghề nghiệp cần quan tâm chăm sóc đời sống vật chất, tinh thần của văn nghệ sĩ, nhất là những người cao tuổi, đãi ngộ thỏa đáng đối với văn nghệ sĩ tài năng. Chú trọng, bồi dưỡng đào tạo lớp văn nghệ sĩ trẻ. Làm tốt công tác bảo vệ bản quyền tác giả. Cần “ban hành và thực hiện chính sách thể hiện rõ sự quan tâm và chăm sóc đối với văn nghệ sĩ và những người hoạt động trong các lĩnh vực nghệ thuật, nhất là nghệ thuật truyền thống. Đầu tư thích đáng để đào tạo nhân tài, nghệ sĩ, có chính sách động viên lực lượng làm văn học nghệ thuật sáng tác, xây dựng các công trình, các tác phẩm có giá trị về nội dung và nghệ thuật.”
Phê bình văn học nghệ thuật là một khoa học, đồng thời là một nghệ thuật. Phê bình văn học nghệ thuật là hoạt động liên quan đến sự thẩm định, đánh giá, nhận xét, “phê bình”. Do đó, cần phải phát huy tinh thần dân chủ trong trao đổi, thảo luận. Và các cuộc trao đổi, tranh luận phải có định hướng, có kết luận, có tổng kết. Trong công cuộc đổi mới đã xuất hiện một số ý kiến và sáng tác lệch lạc sai trái. Đảng đòi hỏi “Tiếp tục đấu tranh chống các khuynh hướng sáng tạo trái với đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng” nhằm bảo vệ phát triển đường lối văn hóa, văn nghệ đúng đắn của Đảng, tiếp tục phát huy vai trò to lớn của lý luận phê bình, nghiên cứu và sáng tác văn học nghệ thuật phấn đấu vì lợi ích nhân dân, vì Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội.
Cần không ngừng nâng cao thị hiếu thẩm mỹ và trình độ thưởng thức nghệ thuật của công chúng, đặc biệt quan tâm tầng lớp thanh niên, thiếu niên, nhi đồng. Tạo điều kiện để nhân dân tham gia tích cực vào sáng tạo, phê bình văn nghệ và được thưởng thức ngày càng nhiều tác phẩm văn nghệ có giá trị trong và ngoài nước. Hết sức coi trọng việc bảo tồn kế thừa, phát huy những giá trị văn nghệ dân gian, văn nghệ bác học, văn nghệ cách mạng. Củng cố hoàn thiện thể chế của văn hóa, văn nghệ bảo đảm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý có hiệu quả của Nhà nước, vai trò làm chủ của nhân dân và lực lượng những người hoạt động văn học nghệ thuật. Phát triển đi đôi với quản lý tốt các hoạt động dịch vụ nghệ thuật và công tác xuất nhập khẩu văn hóa nghệ thuật, chống xu hướng thương mại hóa và đề phòng xu hướng phi chính trị hóa trong lĩnh vực hoạt động nghệ thuật. Không ngừng đổi mới và nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lý văn học nghệ thuật theo hướng: phát huy dân chủ, bảo đảm quyền tự do sáng tạo, bảo đảm điều kiện vật chất và tinh thần cho văn nghệ sĩ đi đôi với bảo đảm định hướng chính trị của Đảng và Nhà nước. Kiên quyết khắc phục các “biểu hiện giản đơn, thô thiển, thiếu dân chủ” trong lãnh đạo, quản lý văn học nghệ thuật. Làm rõ hơn tính chất chính trị - xã hội, nghề nghiệp của các tổ chức sáng tạo nghệ thuật ở Trung ương và địa phương để có cơ chế lãnh đạo, quản lý và đầu tư phát triển tốt.

Câu 12: Phân tích vai trò của thông tin đại chúng đối với sự phát triển văn hóa- xã hội trong giai đoạn hiện nay?
-         Thông tin đại chúng có vai trò vô cùng to lớn đối với sự phát triển văn hóa, xã hội
-          Tác động của thông tin đại chúng không chỉ đối với mỗi cộng đồng mà còn có thể vượt qua khuôn khổ các quốc gia dân tộc, ảnh hưởng đến cả khu vực hoặc toàn cầu.
-         Thông tin đại chúng xuất hiện và tồn tại, phát triển là nhằm đáp ứng những nhu cầu thông tin ngày càng đa dạng và phong phú của đông đảo công chúng.
-         Để thực hiện được hoạt động truyền thông trên phạm vi, quy mô rộng lớn cần phải có các phương tiện kỹ thuật thích ứng như: in ấn, truyền hình, phát thanh, video, phim nhựa, băng hình, băng âm thanh, truyền bản sao (fax), đĩa hình, đĩa âm thanh, cáp quang, vệ tinh nhân tạo, máy tính cá nhân và mạng máy tình toàn cầu, v.v.
-          Căn cứ vào tính chất kỹ thuật và phương thức thực hiện truyền thông, người ta chia thông tin đại chúng thành các loại hình khác nhau như: sách, báo in, phát thanh, truyền hình, điện ảnh, quảng cáo, Internet, băng, đĩa hình và âm thanh…
·        Hiệu quả xã hội của thông tin đại chúng thể hiện trên nhiều mặt:
@  Dư luận xã hội là một hình thức phổ biến , dễ nhận biết hiệu ứng xã hội của thông tin đại chúng.
        @ Sức mạnh về những khả năng lớn để giải quyết các nhiệm vụ của công tác tư tưởng trên phạm vi toàn xã hội. Sức mạnh và khả năng to lớn đó thể hiện ở chỗ, các phương tiện thông tin đại chúng là công cụ có thể tác động đồng thời, nhanh chóng đến từng thành viên xã hội, liên kết các thành viên xã hội thông qua việc truyền tải các thông tin.
Trong xã hội có giai cấp, thông tin đại chúng tất yếu mang tính giai cấp. Ở nước ta, thông tin đại chúng vừa là tiếng nói của Đảng, Nhà nước, vừa là diễn đàn của nhân dân.
Thông tin đại chúng ở nước ta góp phần vào việc hướng dẫn và hình thành dư luận xã hội tích cực, đúng đắn, lành mạnh trên cơ sở thông tin nhanh chóng, đầy đủ, phong phú và chân thật về các sự kiện, hiện tượng, những vấn đề nảy sinh trong đời sống xẫ hội… Hơn thế, thông tin đại chúng còn phân tích, lí giải, chỉ ra bản chất, tính quy luật của các sự kiện, biến cố, giúp nhân dân nhận thức và hành động hợp lý, tích cực. Các phương tiện thông tin đại chúng tiến hành truyền bá, giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, trang bị những tri thức cần thiết làm cơ sở, điều kiện cho việc hình thành quan điểm, lập trường, thái độ chính trị, xã hội đúng đắn, tiến bộ và tích cực, tạo lập trong cán bộ, đảng viên và nhân dân thế giới quan, nhân sinh quan khoa học và cách mạng, từ đó có ý thức tự giác cách mạng cao đối với chế độ, với đất nước và dân tộc.
      - Thông tin đại chúng còn có chức năng giám sát, kiểm soát và quản lý xã hội. Đối với xã hội hiện đại, các phương tiện thông tin đại chúng phát hiện và cảnh báo kịp thời những vấn đề kinh tế - xã hội, làm cho mọi tiến trình, mọi yếu tố hợp thành của xã hội có thể vận động, phát triển phù hợp mục đích và mang lại hiệu quả tốt đẹp. Sự vận hành của hoạt động quản lý xã hội thực chất cũng chính là dòng thông tin phong phú, liên tục từ xã hội đến Đảng, Nhà nước, các cấp chính quyền và ngược lại.
    - Thông tin đại chúng tham gia giám sát sự vận hành của các tiến trình chính trị, kinh tế, xã hội, phát hiện và cảnh báo kịp thời những nguy cơ, những khó khăn phức tạp ảnh hưởng đến sự phát triển chúng (sự giám sát của thông tin đại chúng trước hết nhằm vào các cơ quan tổ chức quyền lực của bộ máy Nhà nước, các cán bộ, đảng viên có trách nhiệm trong bộ máy công quyền). Đồng thời tham gia vào hoạch định và tổ chức thực hiện các chính sách của Đảng và Nhà nước. Thông tin đại chúng còn trở thành diễn đàn dân chủ rộng rãi của nhân dân tham gia quản lý xã hội. Đời sống xã hội càng được phát huy dân chủ, nhân dân càng có nhiều điều kiện để tham gia giải quyết các vấn đề chung của xã hội. Thông tin đại chúng là phương tiện quan trọng, có sức mạnh to lớn trong việc tổ chức thực hiện mục tiêu dân chủ hóa, công khai hóa, tạo ra các điều kiện thuận lợi cho nhân dân góp sức lực và tài năng để giải quyết các vấn đề chung của đất nước.
 - Với khả năng tác động nhanh chóng, mạnh mẽ, rộng lớn các phương tiện thông tin đại chúng là phương tiện truyền bá văn hóa, giáo dục, nâng cao dân trí, bồi dưỡng năng lực sáng tạo và hưởng thụ văn hóa, đáp ứng nhu cầu căn hóa ngày càng cao của các tầng lớp nhân dân lao động. Thông tin đại chúng đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc phát hiện, giới thiệu, truyền bá các tác phẩm văn học nghệ thuật, các sản phẩm văn hóa trong đời sống xã hội.
- Thông tin đại chúng đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc truyền bá, lưu giữ, xây dựng nền văn hóa của mỗi dân tộc, đồng thời cũng tạo thời cơ lớn cho sự tăng cường giao lưu văn hóa giữa các dân tộc, các quốc gia, làm cho con người hiểu biết nhau hơn. Những giá trị văn hóa của mỗi dân tộc, nhờ các phương tiện thông tin đại chúng mà trở thành tài sản, giá trị chung của nhân loại và ngược lại mỗi dân tộc có điều kiện tiếp thu những giá trị chung của văn hóa nhân loại. Sự hiểu biết và đời sống tinh thần của nhân dân có khả năng được nâng cao và trở nên phong phú hơn nhờ có những phương tiện kỹ thuật thuận lợi, giá trị chi phí ngày càng rẻ. Điều này còn cho phép đông đảo nhân dân có điều kiện nâng cao dân trí, thưởng thức văn hóa nghệ thuật, nâng cao đời sống tinh thần.
 - Các phương tiện thông tin đại chúng là vũ khí quan trọng đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực trong đời sống xã hội, chống những tàn dư văn hóa lạc hậu trong đời sống xã hội, chống lại ảnh hưởng của văn hóa ngoại lai, xa lạ với truyền thống văn hóa Việt Nam, đấu tranh với âm mưu truyền bá văn hóa phẩm độc hại, phản động và âm mưu “ diễn biến hòa bình”  của các thế lực thù địch nhằm chống phá cách mạng Việt Nam.
Thông tin đại chúng còn thực hiện chức năng giải trí bằng nhiều hình thức, mức độ khác nhau và tùy theo đặc điểm của từng loại hình phương tiện, về điều kiện tiếp nhận cho phép người dân ngày càng có nhiều điều kiện để lựa chọn các giải trí. Trong điều kiện sống hiện nay, người ta có thể thỏa mãn nhu cầu giải trí của mình qua các phương tiện thông tin đại chúng: đọc báo, sách, xem truyền hình, xem băng hình, xem phim, nghe đài phát thanh, nghe các loại băng âm thanh, truy cập internet v.v..
Có thể nói, thông tin đại chúng là phương tiện đặc biệt có hiệu quả thực hiện các chức năng của văn hóa, từ nhận thức, giáo dục, thẩm mỹ đến giao tiếp, giải trí và dự báo. Nó có vai trò quan trọng đối với sự phát triển văn hóa xã hội.