Dân tộc Chăm
Giới
thiệu về nhà ở, trang phục, đồ ăn, hút của người Chăm ở Việt Nam?
1.
Giới thiệu về người Chăm ở Việt Nam:
- Tộc
danh:
Chăm là tên gọi chính thức đã được công nhận.
Trong thực tế, cộng đồng này còn được gọi là: Chàm, Hời, Chiên Thành, Chăm Pa,
Juaan –Chăm, Chăm Hroi (Phú Yên), Chăm Poông (Nghĩa Bình), Chàvà (An Giang),…
- Dân
số và phân bố dân cư:
·
Vào khoảng những năm đầu thập kỷ 80 của thế kỷ
XX, ở Việt Nam có khoảng 76.000 người Chăm, cư trú chủ yếu ở Ninh Thuận và Bình
Thuận. Ngoài ra có một số ít người Chăm cư trú ở An Giang, Đồng Nai, Tây Ninh,
Tp.HCM,…
·
Đến năm 2009, toàn quốc có 161.729 người
Chăm. Phân bố cư trú ở các tỉnh: Ninh Thuận (gần 70 nghìn người), Bình Thuận
(khoảng 35 nghìn người), Phú Yên (gần 20 nghìn người), An Giang (hơn 14 nghìn
người), Tp.HCM, Bình Định, Đồng Nai, Tây Ninh, Bình Dương, Gia Lai, Bình Phước,…
- Nhà ở,
trang phục, đồ ăn, hút là nhân tố quan trọng trong văn hóa của người Chăm.
2.
Nêu và phân tích đặc điểm nhà ở người Chăm:
- Người
Chăm cư trú mật tập thành làng (palay), trong làng có nhiều nhà, ngăn cách bởi
tường, rào chắc chắn.
·
Vùng Bình Thuận, làng Chăm quần tụ thành hình
tròn.
·
Vùng An Giang, làng Chăm trải dài theo cù
lao, kiểu đường phố.
·
ở Tp.HCM họ cư trú thành từng khu phố.
- Theo
một số thư tịch cổ, xưa kia người Chăm Ninh Thuận, Bình Thuận sinh sống trong
các ngôi nhà sàn thấp. Ngày nay nhà sàn đã biến mất, chỉ còn dấu tích trong một
số kiến trúc dân gian của người Chăm ở Bình Thuận. Hiện nay nhà của họ có những
đặc điểm sau:
·
Vật liệu làm nhà của người Chăm: tre gỗ, rơm
rạ, đất, cát,… Dụng cụ làm mộc: rìu, rựa, đục, cưa,… Kích thước các bộ phận của
ngôi nhà tính bằng chiều dài các bộ phận cơ thể người: cánh tay, sải tay, gang
tay, bước chân,…
·
Cấu trúc ngôi nhà Chăm: cột – kèo – xà ngang
(vì kèo, kiểu người Việt), các bộ phận liên kết lại bằng con sỏ hoặc buộc bằng
mây,…
·
Nhà có 4 mái phẳng, tường vách làm bằng cách
trộn rơm, đất sét, bùn chat lên nhứng bằng tre.
·
Nhà có cửa ra vào, cửa sổ,…đều có cánh gỗ
không dung bản lề mà dung trục quay xuyên qua ngưỡng trên và dưới (giống người
Kinh).
·
Ván sàn cách mặt nền khoảng 40-50 cm, nền đất
cao khoảng 50 cm, trần nhà sát mái chính, dày khoảng 20 cm, làm bằng bùn đất trộn
rơm rạ, trong có nhứng tre, nứa…
- Người
Chăm An Giang ở nhà sàn có kết cấu kèo 5 cột, thường gồm 3 vì, liên kết bằng xà
dọc. Nhà sàn cách mặt đất khoảng 1-1,50m; làm bằng gỗ; tường vách bằng ván
thưng; cầu thang chính ở đầu hồi phía sau, 7 bậc; cầu thang phụ ở nơi rửa ráy,
phơi phóng; nhà bếp riêng, song song nhà chính, nhỏ hơn nhà chính. Nhà có cầu
thang dành cho phụ nữa vào nhà bếp không qua nhà chính.
3.
Nêu và phân tích đặc điểm trang phục người
Chăm:
- Y phục
nam giới Chăm gồm:
·
Váy (bek khăn), tấm vải quấn xà rông
·
Áo lakay, ngắn chùm mông, xẻ giữa ngực, cài
khuy, vạt trước có hai túi, xẻ tà, cổ đứng hình tròn.
·
Áo tah, dài đến mắt cá chân, dài tay, không xẻ
giữa ngực, chỉ mở 10 cm để chui đầu (poncho), xẻ hai bên từ thắt lưng.
·
Áo pochar chả các Pochar hồi giáo, thụng, màu
trắng, không xẻ tà.
·
Áo char bàni (áo plưt), giống áo pochar nhưng
có thêu hoa văn hình mái vòm bằng chỉ đỏ ở ngực và sau có tua chỉ màu.
- Y phục
nữ giới Chăm:
·
Váy khăn, gồm váy mở và váy kín, dài quá gót,
có trang trí hoa văn ở thân hoặc chân váy, một màu gọi là băn, nhiều màu gọi là
băn koh, pha kim tuyến gọi là băn talay mưk.
·
Áo loak, áo dài, chui đầu, màu chàm, xanh lục,
hồng…aokoh mặc thường ngày, ao sawk mặc ngày lễ tết, áo bà đồng bóng gọi là ao
chăm.
·
Áo dài quá gối (ao tắk) áo chùm gót (ao doa
bong), mở ngay eo hông, có hang khuy bấm, cổ hình lá trầu, trái tim, tròn,…
·
Áo lót (ao klăm) mặc bên trong áo dài.
·
Khăn đội đầu của người phụ nữ (hruk lưk)
trang trí hoa văn dệt chỉ nhiều màu.
4.
Nêu và phân tích đặc điểm đồ ăn uống, hút của
người Chăm:
- Người
Chăm ăn cơm thường ngày, đặc biệt là cháo chua, nấu cháo hoa, để nguội, đổ nước
lã lên trên màng đông phía trên bát, nồi, để qua đêm sẽ chua, sau khi ăn gạn bỏ
nước lã bên trên. Ngoài đồ ăn chế biến bằng thịt gia cầm, họ còn có đồ ăn chế
biến từ thịt dỏ (mang, mền); món tung tapai (tian tapai), làm bằng thịt thỏ rằng
băm thành từng miếng, lòng,…cắt nhỏ, kẹp tre tươi, nướng trên than hồng. Ngoài
các món cá thông thường, họ còn có canh cá chua (nấu với me, cà chua, xoài…).
Trong số các loại canh, người Chăm thích ăn món canh nấu bằng các loại rau băm
nhỏ và gạo ngâm giã nhỏ. Họ có truyền thống chế biến các loại nước chấm từ cá
biển: nước mắm (ia mưthin), mắm ruốc (mưthin trum), mắm tôm (mưthin hatay)…
- Xưa
kia, sau khi ăn người Chăm uống nước lã (nước giếng hoặc nước mưa). Khi tiếp
khách, người Chăm uống rượu cất, hoặc rượu cần (tapay kon), trong thánh lễ người
Chăm Bàni uống sữa dê.
- Phụ
nữ Chăm có tục ăn trầu. Trầu của họ gồm: trầu không, vôi, cau, thuốc lào. Trầu
không của họ thường do lái buôn mua về từ trên vùng người Ra Giai, nên họ gọi
là trầu nguồn (hala Raglai).
- Cổ
truyền cả nam giới và phụ nữ Chăm đều hút thuốc lào. Trồng thuốc lào trên rẫy
là hoạt động kinh tế không thể thiếu của các gia đình người Chăm. Khi lá thuốc
già, ngả màu vàng, họ hái mang về ủ, cuộn thành con dài hàng mét, bó chặt, sau
đó thái nhỏ như sợi chỉ, mang phơi khô, trữ trong chum vại để dung dần.
5.
Nhận xét chung-Bảo tồn:
Dân tộc Mường
Nêu
và phân tích những nghi thức cưới xin của người Mường ở Việt Nam?
Trả
lời:
1.
Giới thiệu về người Mường:
- Tộc
danh:
Tùy theo từng vùng, tên tự gọi của họ là Mol,
Mon, Muan, Mual, Ao Tá,…( Mol, Mon, Muan, Mual đều có nghĩa là người). Mường là
tên gọi theo khu vực cư trú: Mường Bi, Mường Vang, Mường Thàng, Mường Động… Hiện
nay, Mường là tên gọi chính thức của họ, đã được Chính phủ và Nhà nước Việt Nam
công nhận.
- Nguồn
gốc lịch sử:
Người Mường có nguồn gốc bản địa, là một
trong những thành phần đầu tiên của cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
- Dân
số và phân bố dân cư:
·
Mường là một trong năm dân tộc có dân số đông
(sau Việt, Thái, Tày và Khơ-me). Theo số liệu điều tra năm 2009, hiện nay ở Việt
Nam có khoảng 1.268.963 người Mường.
·
Người Mường cư trú tập trung ở các tỉnh: Hòa
Bình (hơn 500 nghìn người), Thanh Hóa (khoảng 350 nghìn người), Phú Thọ (gần
200 nghìn người), Sơn La, Ninh Bình, Yên Bái,…
- Cưới
xin là một thành tố rất quan trọng của văn hóa Mường. Cũng như người Việt
(Kinh), cưới xin của người Mường phải thực hiện đầy đủ các nghi thức theo trình
tự: chọn mối (chọn mờ), ướm hỏi (kháo tiếng), dạm ngõ (mờ miệng), ăn hỏi (ti
nòm/ ti nòm bánh), nhận rể, đón dâu (ti cháu/ ti du), lại mặt (ti môộng).
2.
Nêu và phân tích các nghi thức trước khi làm
đám cưới:
- Chọn
mối (chọn mờ): thành ngữ Mường có câu “cơm ngon vì miếng, tiếng tốt vì mờ” hay
“người bốc lên ao, người đào nên giếng”. Cưới xin với họ nhất định phải có mối.
Mối thường là người đông con cháu, thạo đường ăn nói, giao tiếp. Theo họ: “hèn
yếu chớ đi đào dúi, ngắn tiếng ngắn miệng chớ đi làm mối”. Xưa kia ở Mường Bi,
quan lang sẽ gọi mối tới để trách cứ nếu các cặp vợ chồng họ làm mối ăn ở không
hòa thuận.
- Ướm
hỏi (kháo tiếng): ngày cây trong (theo lịch Mường, ngày cây là những ngày tốt),
vào buổi tối, mối thay mặt nhà trai sang thưa chuyện, đánh tiếng ướm hỏi với
nhà gái. Thông thường, ngày kháo tiếng nhà gái không trả lời ngay mà xin nhà
trai đợi vài hôm. Ước chừng vài ngày sau đó, nhà trai lại nhờ mối sang thụ nhận
hồi ý của nhà gái.
- Dạm
ngõ (mờ miệng): mối thay mặt nhà trai mang trầu cau, chè, rượu, bánh,…sang nhà
gái chính thức ngỏ lời với nhà gái. Nhà gái đồng thuận, hai bên cùng nhau chọn
giờ, ngày chính thức làm lễ ăn hỏi (ti nòm bánh) cho đôi con trẻ.
- Ăn hỏi:
·
Ti nòm bánh: theo tục lệ Mường, trước khi ăn
hỏi họ còn thực hiện nghi thức chọn giờ, chọn ngày. Lễ vật cho nghi thức này là
một con cá cắt làm 4 khúc gói trong lá dong, 4 bánh trưng không có nhân, 5 quả
cau và 10 lá trầu không.
·
Ti nòm của người Mường gồm hai bước: lần đầu
gọi là nòm gà, lần cuối gọi là nòm cả. Lần đầu, mối cùng hai thanh niên và cô
em gái chú rể tương lai thay mặt nhà trai mang sang nhà gái đôi gà, hai gói cá,
một vài chục chiếc bánh bẹng, vài gói cơm nếp,…làm cỗ cúng tổ tiên nhà cô gái.
Sau đó là việc ăn mừng và bàn tính ngày giờ thực hiện nòm cả.
3.
Nêu và phân tích các nghi thức trong khi làm
đám cưới:
- Lễ
cưới lần thứ nhất (còn gọi là nòm cả hoặc ti cháu): xưa kia, sau 3 năm khi nhà
trai chuẩn bị đầy đủ, bà con nội ngoại đồng ý, lễ cưới sẽ được tiến hành. Lễ vật
nhà trai phải mang sang nhà gái gồm: gạo (120 đấu/ 100kg), lợn vào trồ 1 con
(20-25kg), thịt lợn (40-50kg), rượu (20 chai), cơm nếp đồ (3 chón), một buồng
cau, trầu không (100 lá), 2-4 cây mía,…Chàng rể trang phục đẹp, thắt khăn trắng,
gùi một chón cơm nếp bên trên đặt hai con gà trống thiến luộc chín. Hai phù rể
(ti piềng) mỗi người gùi một chón cơm nếp đồ.
·
Theo lệ Mường, “ti cháu đáp trâu, ti du vàng
mặt” (rể sang nhà gái lúc thả trâu/9-10h sáng, dâu về nhà chồng khi trời tối).
Mối thay mặt nhà trai trao đồ thách cưới, khấn rượu. Sau đó nhà gái mời thi uống
rượu cần (rảo cậy). Cuộc thi rượu kết thúc, hai họ cùng nhau ăn bữa cơm mừng, mối
được nhà gái thiết một mâm riêng. Trước khi các thành viên nhà trai ra về, nhà
gái mời họ uống rượu chao mang. Khi nhà trai xuống thang, các cô gái dùng bã rượu
cần ném vào họ cho có nhiều phúc. Chàng rể và hai phù rể ở lại nhà gái để tiếp
khách. Sang tối thứ ba, nhà gái làm cỗ tiếp rể (chụ cháu). Sáng sớm ngày thứ
tư, rể và phù rể quay trở về nhà trai.
·
Từ đây cho đến hết thời hạn 3 năm, chàng rể
tương lai phải phục dịch ăn công con (ăn công nuôi con) đối với gia đình nhà vợ.
Tất cả các lễ tết hàng năm, chàng rể phải mang lễ đến biếu bố mẹ vợ (ti cơm
non). Tết Nguyên đán, rể phải biếu bố vợ con lợn, thúng xôi, vài chục bánh mật,
vài chai rượu, trầu cau. Tết Đoan ngọ và ngày Rằm tháng bảy, chàng rể phải biếu
bố mẹ vợ đôi gà, vài gói cá, vài chai rượu. Cũng trong thời gian này, vào tết
Nguyên đán, nhà gái thường cho cô dâu tương lai mang các sản phẩm dệt may sang
biếu bố mẹ chồng. Thông thường, trong thời gian thử thách, dâu rể đều có trách
nhiệm tham gia các công việc của cả hai gia đình. Thành ngữ Mường nói rằng:
“tháng mười không đi mất chồng, tháng sáu không đi mất vợ”.
- Lễ
cưới chính thức (lễ đón dâu/ ti du):
·
Sau 3 năm thử thách, tìm hiểu, nếu mọi chuyện
tốt đẹp, nhà trai cử ông mối mang gà, cá, rượu, trầu cau sang nhà gái xin làm lễ
cưới để đón dâu (ti du). Cùng đi với mối có các anh chị em của chú rể. Nếu nhà
gái đồng ý cho nhà trai đón dâu, họ sẽ thông báo số lễ vật thách cưới cho mối
biết để báo với nhà trai.
·
Xưa kia nhà gái thường thách cưới: một con
trâu đực đã biết cày bừa (hoặc một con bò), dăm thúng gạo, 2 con lợn
(30kg/con), 5-6 thúng xôi, một buồng cau, trên trăm lá trầu không, 20 ống rượu
trắng (khoảng 3-5 lít/ống). Nếu con nhà lang đi lấy chồng thì đồ dẫn cưới sẽ phải
là 9 con trâu, 1 con bò, vài ba con lợn, dăm chiếc nồi đồng, sanh đồng, vài đôi
vòng bạc, gạo, rượu, trầu cau.
·
Sau khi đã nhận được thách cưới của nhà gái,
mối trở về thông báo để nhà trai chuẩn bị. Nhà gái mời người đến khâu màn và
chuẩn bị đồ hồi môn cho cô dâu. Khoảng 2-3 ngày trước khi đón dâu, nhà trai tập
trung chuẩn bị rất nhộn nhịp. Trai gái nội ngoại tập trung làm gạo, lấy củi, lấy
nước. Các cụ ông chỉ đạo việc chọn trâu, chọn lợn, nấu rượu; các cụ bà chuẩn bị
trầu cau. Những ngày này, mọi người trong họ nhà trai mang gạo, gà, rượu, củi
hoặc vải đến giúp. Công việc chuẩn bị của cả họ nhà trai thường kéo dài đến vài
đêm, khẩn trương và vui nhộn.
·
Đam cưới nhà lang kéo dài tới hàng tuần, đám
cưới thường dân cũng phải kéo dài dăm ba ngày. Trước ngày đón dâu, mối dẫn đàu
đoàn đi đón dâu, gồng gánh đồ dẫn cưới, dắt trâu, bò sang nhà gái. Ngoài ông mối,
đi đón dâu còn có cô dì, chú bác, anh em nhà chú rể. Theo lệ Mường, đón dâu thường
xuất phát buổi sớm, số người đi phải là chẵn. Xưa kia, đi đón dâu còn có cồng
chiêng để biểu diễn, giao lưu với họ nhà gái.
·
Người đi đón dâu mang trang phục truyền thống,
mới và đẹp. Chú rể và hai phù rể mang trang phục giống nhau, bên trong mặc áo
trắng, ngoài khoác áo dài thâm (mặc kiểu đóng đôi), quần lụa hoặc nhiễu, đầu đội
nón lá dừa. Nay trang phục dự cưới của người Mường cũng gần tương tự như người
Việt, họ mặc âu phục cả.
·
Đến giờ đi đón dâu, sau một hồi cồng chiêng
gióng lên, đi đầu là mối, tiếp đó là các cụ, công chiêng, sau cùng là bạn bè và
anh em chú rể. Theo phong tục người Mường, đón và đưa dâu phải đi theo đường
chính, qua ngã ba ngã tư phải đặt trầu,
cau; những người tham gia phải đi đến nơi, về đến chốn, không tự ý bỏ dở hoặc rẽ
ngang. Tiếng cồng theo đoàn đón dâu vang trên đường, báo việc hỷ với xóm xa xóm
gần, họ hàng bên cô dâu nghe tiếng cồng để tề tựu, thịnh soạn đón họ hàng nhà
trai.
·
Tới nhà gái, đoàn nhà trai được đón tiếp, họ
cử người nhận đồ dẫn cưới. Sau nghi thức giao nhận đồ dẫn cưới là cuộc hát đối
đáp mở lối và tung bã rượu để cầu phúc cho mọi người. Khi họ nhà trai lên sàn,
hai họ chứng kiến nghi thức lễ tổ tiên và vái sống các bậc ông bà, cha chú bên
vợ của chú rể. Những người được chú rể vái sống chúc phúc lại cho dâu rể và
trao tặng phẩm cho họ.
·
Sau khi hai họ ăn cỗ, thi uống rượu cần, mừng
dâu rể, đến giờ tốt đã chọn, mối thay mặt nhà trai xin đón dâu. Theo tục lệ,
dâu và phù dâu (piềng du) mang trang phục truyền thống. Cô dâu khấn tổ tiên
trên bàn thờ rồi vái sống ông bà, cha mẹ trước khi về nhà chồng. Theo tục lệ,
cô dâu đội nón, tay cầm theo một con dao nhỏ để giữ vía, không được quay mặt
nhìn lại phía sau. Của hồi môn gồm chăn, gối, màn, vải,…được họ hàng nhà gái cử người mang theo. Trên đường đón dâu về
mối là người lo liệu mọi chuyện, nhất là khi bị chăng dây, ngăn đường.
·
Về tới chân cầu thang nhà chồng, nàng dâu mới
được cô em chồng giúp rửa chân trước khi bước qua bó củi lên cầu thang. Vào
nhà, dâu đến lạy vua bếp, sau đó lễ tổ tiên và các bậc cha chú của chồng. Tại
gian giữa sàn, đôi vợ chồng trẻ được mối làm lễ tơ hồng (cơm quel). Sau nghi thức
này, hai họ ăn cỗ mừng cô dâu mới.
4.
Nêu và phân tích các nghi thức sau khi làm
đám cưới:
- Sau
tiệc cưới, những người đưa dâu thường ra về ngay, nếu ở xa, họ phải ngủ lại qua
đêm. Phù dâu thường ngủ bạn với cô dâu khoảng ba đêm sau ngày cưới. Sau đó,
dâu, rể và phù dâu quay về nhà gái làm lễ lại mặt (ti môộng). Xưa kia, sau lễ lại
mặt, đôi vợ chồng trẻ phải trải qua thời kỳ thử thách (bù ma ruộng) mới được chung
chăn gối.
5.
Kết luận: Đánh
giá, nhận xét bản chất và phát biểu quan điểm cá nhân về việt bảo tồn giá trị
(giá trị vh,xh)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét