Thứ Hai, 19 tháng 5, 2014

Các dân tộc thiểu số ở Việt Nam

Dân tộc Chăm

Giới thiệu về nhà ở, trang phục, đồ ăn, hút của người Chăm ở Việt Nam?

1.    Giới thiệu về người Chăm ở Việt Nam:
-      Tộc danh:
Chăm là tên gọi chính thức đã được công nhận. Trong thực tế, cộng đồng này còn được gọi là: Chàm, Hời, Chiên Thành, Chăm Pa, Juaan –Chăm, Chăm Hroi (Phú Yên), Chăm Poông (Nghĩa Bình), Chàvà (An Giang),…
-      Dân số và phân bố dân cư:
·        Vào khoảng những năm đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX, ở Việt Nam có khoảng 76.000 người Chăm, cư trú chủ yếu ở Ninh Thuận và Bình Thuận. Ngoài ra có một số ít người Chăm cư trú ở An Giang, Đồng Nai, Tây Ninh, Tp.HCM,…
·        Đến năm 2009, toàn quốc có 161.729 người Chăm. Phân bố cư trú ở các tỉnh: Ninh Thuận (gần 70 nghìn người), Bình Thuận (khoảng 35 nghìn người), Phú Yên (gần 20 nghìn người), An Giang (hơn 14 nghìn người), Tp.HCM, Bình Định, Đồng Nai, Tây Ninh, Bình Dương, Gia Lai, Bình Phước,…
-      Nhà ở, trang phục, đồ ăn, hút là nhân tố quan trọng trong văn hóa của người Chăm.
2.    Nêu và phân tích đặc điểm nhà ở người Chăm:
-      Người Chăm cư trú mật tập thành làng (palay), trong làng có nhiều nhà, ngăn cách bởi tường, rào chắc chắn.
·        Vùng Bình Thuận, làng Chăm quần tụ thành hình tròn.
·        Vùng An Giang, làng Chăm trải dài theo cù lao, kiểu đường phố.
·        ở Tp.HCM họ cư trú thành từng khu phố.
-      Theo một số thư tịch cổ, xưa kia người Chăm Ninh Thuận, Bình Thuận sinh sống trong các ngôi nhà sàn thấp. Ngày nay nhà sàn đã biến mất, chỉ còn dấu tích trong một số kiến trúc dân gian của người Chăm ở Bình Thuận. Hiện nay nhà của họ có những đặc điểm sau:
·        Vật liệu làm nhà của người Chăm: tre gỗ, rơm rạ, đất, cát,… Dụng cụ làm mộc: rìu, rựa, đục, cưa,… Kích thước các bộ phận của ngôi nhà tính bằng chiều dài các bộ phận cơ thể người: cánh tay, sải tay, gang tay, bước chân,…
·        Cấu trúc ngôi nhà Chăm: cột – kèo – xà ngang (vì kèo, kiểu người Việt), các bộ phận liên kết lại bằng con sỏ hoặc buộc bằng mây,…
·        Nhà có 4 mái phẳng, tường vách làm bằng cách trộn rơm, đất sét, bùn chat lên nhứng bằng tre.
·        Nhà có cửa ra vào, cửa sổ,…đều có cánh gỗ không dung bản lề mà dung trục quay xuyên qua ngưỡng trên và dưới (giống người Kinh).
·        Ván sàn cách mặt nền khoảng 40-50 cm, nền đất cao khoảng 50 cm, trần nhà sát mái chính, dày khoảng 20 cm, làm bằng bùn đất trộn rơm rạ, trong có nhứng tre, nứa…
-      Người Chăm An Giang ở nhà sàn có kết cấu kèo 5 cột, thường gồm 3 vì, liên kết bằng xà dọc. Nhà sàn cách mặt đất khoảng 1-1,50m; làm bằng gỗ; tường vách bằng ván thưng; cầu thang chính ở đầu hồi phía sau, 7 bậc; cầu thang phụ ở nơi rửa ráy, phơi phóng; nhà bếp riêng, song song nhà chính, nhỏ hơn nhà chính. Nhà có cầu thang dành cho phụ nữa vào nhà bếp không qua nhà chính.
3.    Nêu và phân tích đặc điểm trang phục người Chăm:
-      Y phục nam giới Chăm gồm:
·        Váy (bek khăn), tấm vải quấn xà rông
·        Áo lakay, ngắn chùm mông, xẻ giữa ngực, cài khuy, vạt trước có hai túi, xẻ tà, cổ đứng hình tròn.
·        Áo tah, dài đến mắt cá chân, dài tay, không xẻ giữa ngực, chỉ mở 10 cm để chui đầu (poncho), xẻ hai bên từ thắt lưng.
·        Áo pochar chả các Pochar hồi giáo, thụng, màu trắng, không xẻ tà.
·        Áo char bàni (áo plưt), giống áo pochar nhưng có thêu hoa văn hình mái vòm bằng chỉ đỏ ở ngực và sau có tua chỉ màu.
-      Y phục nữ giới Chăm:
·        Váy khăn, gồm váy mở và váy kín, dài quá gót, có trang trí hoa văn ở thân hoặc chân váy, một màu gọi là băn, nhiều màu gọi là băn koh, pha kim tuyến gọi là băn talay mưk.
·        Áo loak, áo dài, chui đầu, màu chàm, xanh lục, hồng…aokoh mặc thường ngày, ao sawk mặc ngày lễ tết, áo bà đồng bóng gọi là ao chăm.
·        Áo dài quá gối (ao tắk) áo chùm gót (ao doa bong), mở ngay eo hông, có hang khuy bấm, cổ hình lá trầu, trái tim, tròn,…
·        Áo lót (ao klăm) mặc bên trong áo dài.
·        Khăn đội đầu của người phụ nữ (hruk lưk) trang trí hoa văn dệt chỉ nhiều màu.
4.    Nêu và phân tích đặc điểm đồ ăn uống, hút của người Chăm:
-      Người Chăm ăn cơm thường ngày, đặc biệt là cháo chua, nấu cháo hoa, để nguội, đổ nước lã lên trên màng đông phía trên bát, nồi, để qua đêm sẽ chua, sau khi ăn gạn bỏ nước lã bên trên. Ngoài đồ ăn chế biến bằng thịt gia cầm, họ còn có đồ ăn chế biến từ thịt dỏ (mang, mền); món tung tapai (tian tapai), làm bằng thịt thỏ rằng băm thành từng miếng, lòng,…cắt nhỏ, kẹp tre tươi, nướng trên than hồng. Ngoài các món cá thông thường, họ còn có canh cá chua (nấu với me, cà chua, xoài…). Trong số các loại canh, người Chăm thích ăn món canh nấu bằng các loại rau băm nhỏ và gạo ngâm giã nhỏ. Họ có truyền thống chế biến các loại nước chấm từ cá biển: nước mắm (ia mưthin), mắm ruốc (mưthin trum), mắm tôm (mưthin hatay)…
-      Xưa kia, sau khi ăn người Chăm uống nước lã (nước giếng hoặc nước mưa). Khi tiếp khách, người Chăm uống rượu cất, hoặc rượu cần (tapay kon), trong thánh lễ người Chăm Bàni uống sữa dê.
-      Phụ nữ Chăm có tục ăn trầu. Trầu của họ gồm: trầu không, vôi, cau, thuốc lào. Trầu không của họ thường do lái buôn mua về từ trên vùng người Ra Giai, nên họ gọi là trầu nguồn (hala Raglai).
-      Cổ truyền cả nam giới và phụ nữ Chăm đều hút thuốc lào. Trồng thuốc lào trên rẫy là hoạt động kinh tế không thể thiếu của các gia đình người Chăm. Khi lá thuốc già, ngả màu vàng, họ hái mang về ủ, cuộn thành con dài hàng mét, bó chặt, sau đó thái nhỏ như sợi chỉ, mang phơi khô, trữ trong chum vại để dung dần.
5.    Nhận xét chung-Bảo tồn:

Dân tộc Mường

Nêu và phân tích những nghi thức cưới xin của người Mường ở Việt Nam?
Trả lời:
1.    Giới thiệu về người Mường:
-      Tộc danh:
Tùy theo từng vùng, tên tự gọi của họ là Mol, Mon, Muan, Mual, Ao Tá,…( Mol, Mon, Muan, Mual đều có nghĩa là người). Mường là tên gọi theo khu vực cư trú: Mường Bi, Mường Vang, Mường Thàng, Mường Động… Hiện nay, Mường là tên gọi chính thức của họ, đã được Chính phủ và Nhà nước Việt Nam công nhận.
-      Nguồn gốc lịch sử:
Người Mường có nguồn gốc bản địa, là một trong những thành phần đầu tiên của cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
-      Dân số và phân bố dân cư:
·        Mường là một trong năm dân tộc có dân số đông (sau Việt, Thái, Tày và Khơ-me). Theo số liệu điều tra năm 2009, hiện nay ở Việt Nam có khoảng 1.268.963 người Mường.
·        Người Mường cư trú tập trung ở các tỉnh: Hòa Bình (hơn 500 nghìn người), Thanh Hóa (khoảng 350 nghìn người), Phú Thọ (gần 200 nghìn người), Sơn La, Ninh Bình, Yên Bái,…
-      Cưới xin là một thành tố rất quan trọng của văn hóa Mường. Cũng như người Việt (Kinh), cưới xin của người Mường phải thực hiện đầy đủ các nghi thức theo trình tự: chọn mối (chọn mờ), ướm hỏi (kháo tiếng), dạm ngõ (mờ miệng), ăn hỏi (ti nòm/ ti nòm bánh), nhận rể, đón dâu (ti cháu/ ti du), lại mặt (ti môộng).
2.    Nêu và phân tích các nghi thức trước khi làm đám cưới:
-      Chọn mối (chọn mờ): thành ngữ Mường có câu “cơm ngon vì miếng, tiếng tốt vì mờ” hay “người bốc lên ao, người đào nên giếng”. Cưới xin với họ nhất định phải có mối. Mối thường là người đông con cháu, thạo đường ăn nói, giao tiếp. Theo họ: “hèn yếu chớ đi đào dúi, ngắn tiếng ngắn miệng chớ đi làm mối”. Xưa kia ở Mường Bi, quan lang sẽ gọi mối tới để trách cứ nếu các cặp vợ chồng họ làm mối ăn ở không hòa thuận.
-      Ướm hỏi (kháo tiếng): ngày cây trong (theo lịch Mường, ngày cây là những ngày tốt), vào buổi tối, mối thay mặt nhà trai sang thưa chuyện, đánh tiếng ướm hỏi với nhà gái. Thông thường, ngày kháo tiếng nhà gái không trả lời ngay mà xin nhà trai đợi vài hôm. Ước chừng vài ngày sau đó, nhà trai lại nhờ mối sang thụ nhận hồi ý của nhà gái.
-      Dạm ngõ (mờ miệng): mối thay mặt nhà trai mang trầu cau, chè, rượu, bánh,…sang nhà gái chính thức ngỏ lời với nhà gái. Nhà gái đồng thuận, hai bên cùng nhau chọn giờ, ngày chính thức làm lễ ăn hỏi (ti nòm bánh) cho đôi con trẻ.
-      Ăn hỏi:
·        Ti nòm bánh: theo tục lệ Mường, trước khi ăn hỏi họ còn thực hiện nghi thức chọn giờ, chọn ngày. Lễ vật cho nghi thức này là một con cá cắt làm 4 khúc gói trong lá dong, 4 bánh trưng không có nhân, 5 quả cau và 10 lá trầu không.
·        Ti nòm của người Mường gồm hai bước: lần đầu gọi là nòm gà, lần cuối gọi là nòm cả. Lần đầu, mối cùng hai thanh niên và cô em gái chú rể tương lai thay mặt nhà trai mang sang nhà gái đôi gà, hai gói cá, một vài chục chiếc bánh bẹng, vài gói cơm nếp,…làm cỗ cúng tổ tiên nhà cô gái. Sau đó là việc ăn mừng và bàn tính ngày giờ thực hiện nòm cả.
3.    Nêu và phân tích các nghi thức trong khi làm đám cưới:
-      Lễ cưới lần thứ nhất (còn gọi là nòm cả hoặc ti cháu): xưa kia, sau 3 năm khi nhà trai chuẩn bị đầy đủ, bà con nội ngoại đồng ý, lễ cưới sẽ được tiến hành. Lễ vật nhà trai phải mang sang nhà gái gồm: gạo (120 đấu/ 100kg), lợn vào trồ 1 con (20-25kg), thịt lợn (40-50kg), rượu (20 chai), cơm nếp đồ (3 chón), một buồng cau, trầu không (100 lá), 2-4 cây mía,…Chàng rể trang phục đẹp, thắt khăn trắng, gùi một chón cơm nếp bên trên đặt hai con gà trống thiến luộc chín. Hai phù rể (ti piềng) mỗi người gùi một chón cơm nếp đồ.
·        Theo lệ Mường, “ti cháu đáp trâu, ti du vàng mặt” (rể sang nhà gái lúc thả trâu/9-10h sáng, dâu về nhà chồng khi trời tối). Mối thay mặt nhà trai trao đồ thách cưới, khấn rượu. Sau đó nhà gái mời thi uống rượu cần (rảo cậy). Cuộc thi rượu kết thúc, hai họ cùng nhau ăn bữa cơm mừng, mối được nhà gái thiết một mâm riêng. Trước khi các thành viên nhà trai ra về, nhà gái mời họ uống rượu chao mang. Khi nhà trai xuống thang, các cô gái dùng bã rượu cần ném vào họ cho có nhiều phúc. Chàng rể và hai phù rể ở lại nhà gái để tiếp khách. Sang tối thứ ba, nhà gái làm cỗ tiếp rể (chụ cháu). Sáng sớm ngày thứ tư, rể và phù rể quay trở về nhà trai.
·        Từ đây cho đến hết thời hạn 3 năm, chàng rể tương lai phải phục dịch ăn công con (ăn công nuôi con) đối với gia đình nhà vợ. Tất cả các lễ tết hàng năm, chàng rể phải mang lễ đến biếu bố mẹ vợ (ti cơm non). Tết Nguyên đán, rể phải biếu bố vợ con lợn, thúng xôi, vài chục bánh mật, vài chai rượu, trầu cau. Tết Đoan ngọ và ngày Rằm tháng bảy, chàng rể phải biếu bố mẹ vợ đôi gà, vài gói cá, vài chai rượu. Cũng trong thời gian này, vào tết Nguyên đán, nhà gái thường cho cô dâu tương lai mang các sản phẩm dệt may sang biếu bố mẹ chồng. Thông thường, trong thời gian thử thách, dâu rể đều có trách nhiệm tham gia các công việc của cả hai gia đình. Thành ngữ Mường nói rằng: “tháng mười không đi mất chồng, tháng sáu không đi mất vợ”.
-      Lễ cưới chính thức (lễ đón dâu/ ti du):
·        Sau 3 năm thử thách, tìm hiểu, nếu mọi chuyện tốt đẹp, nhà trai cử ông mối mang gà, cá, rượu, trầu cau sang nhà gái xin làm lễ cưới để đón dâu (ti du). Cùng đi với mối có các anh chị em của chú rể. Nếu nhà gái đồng ý cho nhà trai đón dâu, họ sẽ thông báo số lễ vật thách cưới cho mối biết để báo với nhà trai.
·        Xưa kia nhà gái thường thách cưới: một con trâu đực đã biết cày bừa (hoặc một con bò), dăm thúng gạo, 2 con lợn (30kg/con), 5-6 thúng xôi, một buồng cau, trên trăm lá trầu không, 20 ống rượu trắng (khoảng 3-5 lít/ống). Nếu con nhà lang đi lấy chồng thì đồ dẫn cưới sẽ phải là 9 con trâu, 1 con bò, vài ba con lợn, dăm chiếc nồi đồng, sanh đồng, vài đôi vòng bạc, gạo, rượu, trầu cau.
·        Sau khi đã nhận được thách cưới của nhà gái, mối trở về thông báo để nhà trai chuẩn bị. Nhà gái mời người đến khâu màn và chuẩn bị đồ hồi môn cho cô dâu. Khoảng 2-3 ngày trước khi đón dâu, nhà trai tập trung chuẩn bị rất nhộn nhịp. Trai gái nội ngoại tập trung làm gạo, lấy củi, lấy nước. Các cụ ông chỉ đạo việc chọn trâu, chọn lợn, nấu rượu; các cụ bà chuẩn bị trầu cau. Những ngày này, mọi người trong họ nhà trai mang gạo, gà, rượu, củi hoặc vải đến giúp. Công việc chuẩn bị của cả họ nhà trai thường kéo dài đến vài đêm, khẩn trương và vui nhộn.
·        Đam cưới nhà lang kéo dài tới hàng tuần, đám cưới thường dân cũng phải kéo dài dăm ba ngày. Trước ngày đón dâu, mối dẫn đàu đoàn đi đón dâu, gồng gánh đồ dẫn cưới, dắt trâu, bò sang nhà gái. Ngoài ông mối, đi đón dâu còn có cô dì, chú bác, anh em nhà chú rể. Theo lệ Mường, đón dâu thường xuất phát buổi sớm, số người đi phải là chẵn. Xưa kia, đi đón dâu còn có cồng chiêng để biểu diễn, giao lưu với họ nhà gái.
·        Người đi đón dâu mang trang phục truyền thống, mới và đẹp. Chú rể và hai phù rể mang trang phục giống nhau, bên trong mặc áo trắng, ngoài khoác áo dài thâm (mặc kiểu đóng đôi), quần lụa hoặc nhiễu, đầu đội nón lá dừa. Nay trang phục dự cưới của người Mường cũng gần tương tự như người Việt, họ mặc âu phục cả.
·        Đến giờ đi đón dâu, sau một hồi cồng chiêng gióng lên, đi đầu là mối, tiếp đó là các cụ, công chiêng, sau cùng là bạn bè và anh em chú rể. Theo phong tục người Mường, đón và đưa dâu phải đi theo đường chính, qua ngã ba ngã tư phải đặt trầu, cau; những người tham gia phải đi đến nơi, về đến chốn, không tự ý bỏ dở hoặc rẽ ngang. Tiếng cồng theo đoàn đón dâu vang trên đường, báo việc hỷ với xóm xa xóm gần, họ hàng bên cô dâu nghe tiếng cồng để tề tựu, thịnh soạn đón họ hàng nhà trai.
·        Tới nhà gái, đoàn nhà trai được đón tiếp, họ cử người nhận đồ dẫn cưới. Sau nghi thức giao nhận đồ dẫn cưới là cuộc hát đối đáp mở lối và tung bã rượu để cầu phúc cho mọi người. Khi họ nhà trai lên sàn, hai họ chứng kiến nghi thức lễ tổ tiên và vái sống các bậc ông bà, cha chú bên vợ của chú rể. Những người được chú rể vái sống chúc phúc lại cho dâu rể và trao tặng phẩm cho họ.
·        Sau khi hai họ ăn cỗ, thi uống rượu cần, mừng dâu rể, đến giờ tốt đã chọn, mối thay mặt nhà trai xin đón dâu. Theo tục lệ, dâu và phù dâu (piềng du) mang trang phục truyền thống. Cô dâu khấn tổ tiên trên bàn thờ rồi vái sống ông bà, cha mẹ trước khi về nhà chồng. Theo tục lệ, cô dâu đội nón, tay cầm theo một con dao nhỏ để giữ vía, không được quay mặt nhìn lại phía sau. Của hồi môn gồm chăn, gối, màn, vải,…được họ hàng nhà  gái cử người mang theo. Trên đường đón dâu về mối là người lo liệu mọi chuyện, nhất là khi bị chăng dây, ngăn đường.
·        Về tới chân cầu thang nhà chồng, nàng dâu mới được cô em chồng giúp rửa chân trước khi bước qua bó củi lên cầu thang. Vào nhà, dâu đến lạy vua bếp, sau đó lễ tổ tiên và các bậc cha chú của chồng. Tại gian giữa sàn, đôi vợ chồng trẻ được mối làm lễ tơ hồng (cơm quel). Sau nghi thức này, hai họ ăn cỗ mừng cô dâu mới.
4.    Nêu và phân tích các nghi thức sau khi làm đám cưới:
-      Sau tiệc cưới, những người đưa dâu thường ra về ngay, nếu ở xa, họ phải ngủ lại qua đêm. Phù dâu thường ngủ bạn với cô dâu khoảng ba đêm sau ngày cưới. Sau đó, dâu, rể và phù dâu quay về nhà gái làm lễ lại mặt (ti môộng). Xưa kia, sau lễ lại mặt, đôi vợ chồng trẻ phải trải qua thời kỳ thử thách (bù ma ruộng) mới được chung chăn gối.

5.    Kết luận: Đánh giá, nhận xét bản chất và phát biểu quan điểm cá nhân về việt bảo tồn giá trị (giá trị vh,xh)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét